Nếu tất cả các đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông được xây dựng
thì trong tương lai không xa ĐBSCL cũng sẽ biến mất trên bản đồ. Trong khi đó,
một số nhà chuyên môn khuyến cáo nên linh hoạt trong việc ứng phó với tình
trạng hạn, mặn đang diễn ra khốc liệt như hiện nay.
Thủy điện ngăn phù sa
Một con
sông đi qua huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long còn nước rất ít.
|
Trình bày tham luận tại buổi tọa đàm
“Vấn đề hạn mặn ở ĐBSCL năm 2016: hiện trạng-tác động-giải pháp” diễn ra cuối
tuần qua tại thành phố Cần Thơ, chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện cho biết các đập
thủy điện của Trung Quốc và 11 đập ở khu vực hạ lưu sông Mê Kông thuộc địa phận
Lào, Campuchia nếu tiếp tục xây dựng sẽ dẫn đến tình trạng phù sa không về
ĐBSCL nữa.
Theo ông Thiện, hiện nay tác động
chính của đập thủy điện Trung Quốc đối với ĐBSCL là làm giảm 50% lượng phù sa
đổ về. Nếu 11 đập ở hạ lưu tiếp tục xây dựng thì 50% còn lại cũng sẽ mất đi.
Cũng theo ông Thiện, ĐBSCL là một
đồng bằng còn rất trẻ, chỉ 6.000 năm, được kiến tạo bằng bùn và trong quá trình
đó, nó miệt mài đem phù sa từ thượng nguồn sông Mê Kông về xây dựng nên. Như
vậy, khi phù sa không về, nghĩa là cán cân phù sa không thắng được năng lượng
sóng biển đập vào liên tục, “thì tôi rất lo ngại, ĐBSCL có thể biến mất rất
nhanh và đó mới là chuyện đáng lo đối với các đập thủy điện”, ông Thiện phát
biểu.
TS. Dương Văn Ni, khoa Môi trường
thuộc trường Đại học Cần Thơ, cũng cho rằng ĐBSCL không thể hình thành nếu
không có lưu vực thượng nguồn. Vì nếu thiếu thì lấy đâu ra vật liệu (phù sa,
cát, sỏi) để hình thành nên ĐBSCL. Theo ông, các đập thủy điện nếu được xây
dựng sẽ giữ lại 75-90% phù sa thô (cát, sỏi) và ĐBSCL sẽ không được tiếp tục
bồi đắp nên chìm xuống dần và biến mất. “Thiếu phù sa, ĐBSCL sẽ “chết” vì không
có nguồn nào thay thế, đây là cái cốt lõi nhưng không ai đề cập đến”, ông cho
biết.
Thích ứng ra sao?
Một số nhà chuyên môn cho rằng cần
phải có chiến lược ứng phó lâu dài, hài hòa ở cấp quốc gia và cả khu vực. Tuy
nhiên, chuyện hiện tại của ĐBSCL là nên thích ứng như thế nào trước sự khốc
liệt của hạn hán và xâm nhập mặn lịch sử?
Ông Nguyễn Hữu Thiện cho rằng thiệt
hại do hạn và xâm nhập mặn gây ra cho vùng ven biển ĐBSCL là rất lớn và cần
phải “làm cái gì đó” ngay lập tức cho ĐBSCL. Tuy nhiên, không nên lấy một sự
kiện cực đoan làm chuẩn cho một chiến lược lâu dài.
Theo ông Thiện, trong trường hợp
thực hiện chiến lược lâu dài cũng phải có dự phòng tình huống cực đoan để giải
quyết nhu cầu nước sinh hoạt, sản xuất và để tránh thiệt hại có thể bằng cách
thay đổi lịch thời vụ sản xuất, phương thức sản xuất, thậm chí không sản xuất
trong năm đó. “Đối với nước sinh hoạt, nếu dự báo trước được hạn hán, các biện
pháp tích trữ nước ngọt trong kênh, mương, ao hồ có thể tiến hành sớm”, ông cho
biết.
TS.Dương Văn Ni cho rằng thích ứng
với hạn và xâm nhập mặn phải linh hoạt, phù hợp với đặc tính sản xuất, nuôi
trồng của từng vùng sinh thái khác nhau. Chẳng hạn, vùng sinh thái bị mặn xâm
nhập nhiều năm, gần như không còn khả năng quay lại trồng lúa thì có thể nuôi
tôm nước mặn kết hợp trồng cây “cỏ năng tượng”. “Cây này trồng trong vuông tôm
sẽ giúp lọc nước, giữ nhiệt độ nước ổn định, giúp lắng đọng phù sa trở lại ao
tôm rất tốt và có thể khai thác cây cỏ này làm hàng thủ công”, ông gợi ý.
Đối với vùng sinh thái mặn, ngọt
tranh chấp, tức mùa khô nước bị nhiễm mặn và mùa mưa nước ngọt, thì không nên
chuyển qua nuôi tôm thâm canh mà tốt nhất phải phục hồi cái trước đây hay làm
là một vụ tôm mùa nắng và một vụ lúa mùa mưa.
Tuy nhiên, theo ông Ni, nếu nhìn ở
một khía cạnh nào đó, hạn và xâm nhập mặn đôi khi lại là cơ hội để thay đổi
nhận thức. “Chẳng hạn, ở cấp làng xóm, nhận thức sẽ thay đổi, từ khía cạnh nước
là của riêng anh này hay anh kia, sang nước bây giờ có sự liên kết đôi, ba nhà
trong một xóm. Bởi nếu chỉ cần một hộ lấy nước mặn vào vùng ngọt sản xuất lúa,
thì các hộ xung quanh không thể làm lúa được nữa”, ông cho biết.
Trung Chánh
Source:
No comments:
Post a Comment