Sunday, September 10, 2023

ĐẬP VÀ HẠN HÁN, DỮ KIỆN VÀ NGOẠI GIAO TRONG MEKONG

(Dams and drought, data and diplomacy in the Mekong)

Rajesh Daniel – Bình Yên Đông lược dịch

Bangkok Tribune – November 7, 2021

 

Hợp lưu của sông Songkhram và sông Mekong ở Ban Chai Bun, huyện Tha Uthen, Nakhon Phanom.  Một sự sụt giảm bất thường của sông Mekong và sự vắng mặt của nước chảy vào Songkhram trong mùa mưa được quan sát trong năm nay.

 [Ảnh: Paltravut Boonprasert]

 

Khi khu vực Mekong đối mặt với lũ lụt và hạn hán nhiều hơn mỗi năm, chia sẻ dữ kiện và ngoại giao đang xuất hiện như những cốt chuyện mới cho việc cai quản nước xuyên biên giới

“Năm nay, mọi quốc gia trong khu vực Lancang-Mekong đang đối mặt với lũ lụt nghiêm trọng.  Nhưng thách thức hiện nay của chúng ta được ghép với Covid-19.  Rất khó để giúp các cộng đồng bị ảnh hưởng của lũ lụt khi chúng ta cũng phải giữ khoảng cách xã hội,” Tiến sĩ (TS) Seree Supratid, Giám đốc Trung tâm Thay đổi Khí hậu và Tai họa, Đại học Rangsit, Thái Lan, nói ở một diễn đàn về nghiên cứu và chánh sách trong khu vực Mekong được tổ chức gần đây.

Một nghiên cứu được công bố trong tháng 10 năm 2021 bởi Ủy hội Sông Mekong (MRC) xác nhận rằng lũ lụt đã trở nên thường xuyên hơn dọc theo sông [Mekong].  “Trong 3 năm qua, khoảng 62% làng mẫu đã bị mất mát và thiệt hại do ngập lụt.  Thái Lan có tỉ lệ cao nhất (80%) trong khi Việt Nam có tỉ lệ thấp nhất (42%).  25% làng thấy rằng ảnh hưởng của lũ lụt trở nên tồi tệ hơn nhiều, và 25% làng báo cáo những ảnh hưởng nầy trong 12 tháng vừa qua thì tồi tệ hơn năm trước.

Hạn hán cũng đáng lo ngại.  Trong năm 2019-2020, Thái Lan trải qua tình trạng hạn hán kỷ lục trong 2 năm liên tiếp, được xem như hạn hán tồi tệ nhất trong 40 năm qua với 25 tỉnh được tuyên bố là vùng tai họa hạn hán.

Hạn hán 2019-2020 ảnh hưởng đến số ngư dân và nông dân lớn lao trong lưu vực Mekong.  Ngư dân ở đông bắc Thái Lan và Cambodia báo cáo sụt giảm lớn lao trong số cá đánh được trong các phụ lưu của Mekong trong khi nhiều nông dân ở Cambodia và Việt Nam phải bỏ hoang ruộng của họ để tìm việc làm ở các vùng đô thị.

Một đặc tính sinh thái quan trọng của sông Mekong là nhịp hàng năm/theo mùa của lũ lụt định kỳ và mực nước thấp đóng góp vào tính đa dạng và phong phú của cá.  Trong những năm gần đây, nhịp sông có thể đoán được trước đây đã bị xáo trộn bởi thay đổi khí hậu và việc xây cất các đập lớn trên sông – 11 ở Trung Hoa và 2 (đập Xayaburi và Don Sahong) trên dòng chánh Mekong ở Lao PDR, cộng với nhiều đập trên các phụ lưu.

 

Xây dựng cốt chuyện

Trong thời kỳ hạn hán 2019-2020, căng thẳng gia tăng giữa các chánh phủ trong khu vực Lancang-Mekong.  Đặc biệt, các hồ chứa ở Trung Hoa trên Lancang (thượng lưu Mekong) bị chỉ trích đã giữ lại nước và làm tăng ảnh hưởng của hạn hán ở hạ lưu vực.

“Lũ lụt và hạn hán nay được xem như các cốt chuyện được xả hội xây dựng chắc chắn.  Những cốt chuyện nầy có những hậu quả chánh trị giữa các nhóm khác nhau,” theo Giảng sư Lyu Xing của Đại học Yunnan (Vân Nam), Trung Hoa.

“Cần phải tìm ra cái nào là ‘hiện tượng tự nhiên’ và cáo nào là hậu quả của hành động của con người chẳng hạn như thay đổi khí hậu hay hạ tầng cơ sở sông ảnh hưởng đến sông Mekong.  Chúng ta phải để ý đến việc làm thế nào những cốt chuyện nầy được xây dựng và sử dụng.  Người dân có thể dễ dàng chỉ tay và đổ thừa lẫn nhau cho lũ lụt và hạn hán, nhưng điều đó không giải quyết vấn đề,” ông lưu ý.

Nghiên cứu khoa học được duyệt nhóm có thể giúp mở các cốt chuyện và bảo đảm minh bạch trong việc hợp tác xuyên biên giới.  Theo quan điểm của TS Carl Middleton của Đại học Chulalongkorn, “Nghiên cứu và kiến thức khoa học có thể nối liền sự hiểu biết của hiện tượng tự nhiên và các cốt chuyện do xã hội dựng lên.

“Trong đợt hạn hánh nghiêm trọng 2019-2020, căng thẳng chánh trị gia tăng vì dòng chảy thấp trong sông Mekong cho thấy những thách thức và hạn chế của việc cai quản nước xuyên biên giới, nhất là làm thế nào việc chia sẻ dữ kiện giúp phân tích.

“Một trong những vấn đề then chốt đã xuất hiện là không có đầy đủ dữ kiện tức thời về dòng chảy được công bố về việc điều hành và trữ nước của các dự án đập trong lưu vực Lancang-Mekong,” ông nói.

Căng thẳng do thiếu chia sẻ dữ kiện cuối cùng mang lại việc hợp tác tổ chức giữa MRC và Hơp tác Lancang-Mekong (LMC) của Trung Hoa, được thành lập bởi Trung Hoa trong năm 2015.  Một số phiên họp đã được tổ chức.

Trong tháng 10 năm 2020, MRC loan báo một thỏa thuận với Trung Hoa để chia sẻ dữ kiện 2 lần một ngày, quanh năm, về mưa và mực nước ở 2 trạm theo dõi ở Manwan (Mạn Loan) và Jinghong (Cảnh Hồng).  Đây là một bước tiến dài vì thỏa thuận trước đây giữa MRC và Trung Hoa chỉ cung cấp việc chia sẻ dữ kiện trong mùa mưa.

MRC đã công bố mục tiêu của mình là thiết lập một “khuôn khổ ngoại giao nước” để giúp cho các cuộc thương thảo, quản lý căng thẳng và giải quyết tranh chấp, để giữ cho Mekong không có những xung đột liên quan đến nước.

“Ngoại giao nước đang xuất hiện trong khu vực, nhưng nó rất nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước và hạ thấp vai trò của các diễn viên không phải nhà nước gồm có các nhóm xã hội dân sự và các nhóm cộng đồng địa phương,” TS Middleton nói.

 

Ngoại giao nước: giá trị cho ai, lợi ích cho ai?

Trong tháng 7 năm 2018, đập Xe Pian-Xe Namnoy ở hạ Lào vỡ làm cho 481 triệu m3 nước tràn xuống hạ lưu phá hủy nông trại, tài sản và gia súc.  Vụ vỡ đập khiến cho hàng ngàn người không nhà ở Lào lẫn Cambodia, 49 người chết với nhiều người mất tích và được cho là chết đuối.

Đập vỡ theo sau mưa như trút nước.  Xã hội dân sự báo cáo rằng đập không được thiết kế để đối phó với các sự kiện thời tiết cực đoan; hơn nữa, các cộng đồng ở địa phương chưa bao giờ được tham vấn trước khi việc xây cất bắt đầu.  Ngay cả hiện nay, hàng ngàn người của các cộng đồng sống trong những lều tạm và đồi mặt vời tình trạng thiếu nước và thực phẩm.  Vậy mà nhiều bài học từ vụ vỡ đập Xe Pian-Xe Namnoy có vẻ không được thu nhận bởi các nhà phát triển đập và chánh phủ khu vực.

Cốt chuyện hiện nay của ngoại giao nước có vẻ có giới hạn cần được công nhận rõ ràng.  Ngày nay, ngoại giao nước vẫn chú trọng đến việc đối thoại liên chánh phủ, quy hoạch lưu vực, trao đổi kỹ thuật, chia sẻ dữ kiện, lượng định kiến tạo và kiến thức kỹ thuật về đập và đo đạc thủy học hơn các dạng khác của kiến thức,

Nó không tìm cách giải quyết căng thẳng liên tục đối với việc làm thế nào việc xây đập lớn được quy hoạch và quyết định trong sông Mekong và các phụ lưu của nó, nhất là không đề cập đến lo ngại của hàng ngàn người trong các cộng đồng ở địa phương dựa vào sông Mekong để sinh sống.

Chia sẻ dữ kiện về dòng chảy (gia tăng) và việc điều hành hồ chứa (chưa có) không ngang hàng với kiến thức của các hệ thống sông, nhất là kiến thức và kinh nghiệm sâu sắc của các cộng đồng ven sông và tầm nhìn của họ về phát triển.  Các nỗ lực cai quản nước xuyên biên giới chú trọng đến nhà nước cho các diễn viên không phải nhà nước một thời gian chờ thi hành án và kiến thức địa phương của họ về lưu vực sông và hệ sinh thái của nó.

Sông Mekong và các hệ sinh thái của nó có nhiều giá trị từ kinh tế khu vực đến địa phương cũng như văn hóa và tinh thần.  Vậy mà, các chánh phủ của khu vực ưu tiên hóa giá trị kinh tế của sông và kết hợp kinh tế khu vực lên trên các giá trị kinh tế, cuộc sống và văn hóa địa phương.

Nếu ngoại giao nước đang xuất hiện không làm tồi tệ mất an ninh nước, nó có thể né những tranh cãi về việc lấy quyết định cho đập và quỹ đạo không khả chấp của việc phát triển trong khu vực Mekong.

No comments:

Post a Comment