Sunday, December 29, 2019

KHU VỰC MEKONG ĐƯỢC LƯU Ý NHIỀU HƠN


(Mekong River region on more minds)

Thitinan Pongsudhirak – Bình Yên Đông lược dịch
Bangkok Post – 6 December 2019

Cồn cát có thể nhìn thấy ở nhiều nơi trên sông Mekong ở Nakhon Phanom 
khi mực nước xuống rất thấp. [Ảnh: Pattanapong Sripiachai]


Khi Việt Nam đang sẵn sàng để làm chủ tịch luân phiên của ASEAN [Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ĐNA))] vào tháng 1 năm 2020, chánh sách ngoại giao ưu tiên đứng hàng thứ nhì sau Biển Đông được cho là khu vực Mekong.  Trong khi Biển Đông, nơi có trên 1/3 tàu bè trên thế giới qua lại, được xem là mối quan tâm chung của ASEAN, khu vực Mekong được giao khoán cho 5 quốc gia duyên hà ở lục địa ĐNA để đối phó với các đập thủy điện của Trung Hoa ở thượng lưu khiến cho hạn hán trở nên thường xuyên và lượng cá sụt giảm ở các cộng đồng hạ lưu, đặc biệt ở Cambodia và Việt Nam.

Nếu Việt Nam là chủ tịch của ASEAN, Mekong có thể sớm trở nên một vấn đề của ASEAN, cho phép 5 quốc gia duyên hà có thêm lực bẫy để vật lộn với sự tham lam nước đơn phương của Trung Hoa ở thượng lưu.  Lần lượt, nếu ASEAN có thể cùng tập họp phía sau Biển Đông và Sông Mekong, tổ chức khu vực với 10 thành viên có thể có thế lực hơn để thương lượng với Trung Hoa, đặc biệt nếu tranh thủ được sự tham gia của các tay chơi quan trọng khác như Nhật Bản và Hoa Kỳ.

Với thế lực toàn cầu và động lực vùng đang thay đổi ở Á Châu, lục địa ĐNA giáp ranh và gần gũi với khu vực Mekong – cái có thể gọi là “lục địa Mekong” – đã trỗi dậy như một không gian khác biệt của việc phát triển kinh tế đầy hứa hẹn, chia sẻ tài nguyên, và trau dồi khả năng đòi hỏi một sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các phe có liên hệ.  Mặc dù với nguồn nước bao la và sự cần thiết để hợp tác chia sẻ tài nguyên giữa các quốc gia duyên hà, lục địa Mekong có một khuôn khổ quản trị khu vực lỏng lẻo và không có ràng buộc pháp lý, xoay quanh Đại Phân vùng Mekong (Greater Mekong Subregion (GMS)) từ đầu thập niên 1990s.

“Thế hệ thứ nhất” của sự hợp tác khu vực Mekong nầy nẫy sinh ra một số thỏa ước hợp tác, tiêu biểu là Thỏa ước Mekong (Mekong Agreement (MA)) và Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) cùng với Viện Mekong (Mekong Institute (MI)).  Mục đích chung là làm mạnh mẽ và dễ dàng cho sự phát triển và tăng trưởng khả chấp của các quốc gia lục địa Mekong, gồm có Cambodia, Trung Hoa, Lào, Myanmar, Thái Lan, và Việt Nam, mặc dù Trung Hoa và Myanmar chỉ là quan sát viên ở MRC.

Gần 3 thập niên sau, khi các nền kinh tế của lục địa ĐNA bành trướng mạnh qua mậu dịch rộng rãi, đầu tư và động lực tăng trưởng ở ASEAN, không gian Mekong trở nên hấp dẫn hơn.  Trong phạm vi của GMS bao gồm các tỉnh Yunnan (Vân Nam) và Guangxi (Quảng Tây), khu vực nầy hiện nay cung cấp một thị trường với trên 350 triệu người và một GDP trên 1.200 tỉ USD, một tiềm năng đang lên đáng kể.  Việc nối kết hạ tầng cở sở của GMS đem lại hệ thống đường sá và xa lộ, từ bắc xuống nam và từ đông sang tây, đi qua toàn thể lục địa ĐNA từ Kunming (Côn Minh) ở Yunnan đến tây nam Thái Lan và từ đông nam Myanmar đến miền trung Việt Nam.  Điều đang thiếu trong việc phát triển hạ tầng cơ sở khu vực là đường sắt.  Mặt đi xuống của việc phát triển khu vực Mekong là việc sử dụng nước không cân đối giữa các quốc gia ở thượng và hạ lưu.

Mặc dù các phương tiện của thế hệ thứ nhất từ GMS đến MA và MRC đã đóng góp rất lớn trong thời gian vừa qua, việc thay đổi địa chánh trị và phát triển kinh tế gần đây đã thách thức vai trò, ích lợi và hiệu năng của những tổ chức nầy.  Rõ ràng, cần có nhu cầu lớn hơn trong việc hợp tác khu vực để theo kịp với việc gia tăng sử dụng tài nguyên trong khu vực Mekong.

Trường hợp cá biệt, việc phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Hoa gây nguy hiểm cho các đường hướng và cơ chế mới trong việc thúc đẩy hợp tác khu vực.  Quan trọng nhất trong số đó là Hợp tác Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)), được thành lập vào năm 2015.  Trong suốt vài năm qua, LMC đã tổ chức 2 Hội nghị Thượng đỉnh vào năm 2016 và 2018.  LMC đã được đưa ra và đẩy mạnh như phương tiện hợp tác “thế hệ thứ hai” quan trọng nhất cho lục địa Mekong.

Gần đây hơn, Thái lan vừa hồi sinh Chiến lược Hợp tác Kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong (Ayeyawady-Chao Praya-Mekong Economic Cooperation Strategy (ACMECS)), được phát động đầu tiên trong năm 2003, gồm có tất cả các quốc gia lục địa ĐNA nhưng không có Trung Hoa.  ACMECS được chú ý nhiều hơn vì nó cung cấp một giải pháp thay thế cho LMC của Trung Hoa.

Mặt khác, LMC, được sự ủng hộ của Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative (BRI)) của Trung Hoa, với viễn kiến Hành lang Kinh tế Bán đảo Trung Hoa-Đông Dương-Trung Hoa (China-Indo-China Peninsula Economic Corridor (CICPEC)).  Việc phát triển đường sắt của nước nầy đang diễn ra ở Lào, nối Kunming với Vientiane (Vạn Tượng) trên bờ sông Mekong.  Một tuyến đường sắt từ Vientiane qua Thái lan về phía nam đến Malaysia và Singapore nằm trong kế hoạch hạ tầng cơ sở của BRI.  Kết quả là lục địa Mekong đã trở thành một bức tranh ghép hình (jigsaw) cho việc sử dụng nguồn tài nguyên chung và phát triển hạ tầng cơ sở.  Cái gì có thể là khuôn khổ luật lệ, mẫu mực, và quản trị để hình thành giai đoạn tiếp theo của sự hợp tác khu vực giữa các phe có liên hệ vẫn còn trong vòng tranh cãi.  Và sự tương hợp giữa các khuôn khổ hợp tác như MRC và LMC cũng như thế.

Về phần mình, với tư cách chủ tịch ASEAN, Việt Nam chọn chủ đề “ASEAN gắn liền và phản ứng (cohesive and responsive ASEAN).”  Nền tảng của chủ đề là 5 ưu tiên góp phần vào hòa bình và ổn định trong khu vực, khuyến khích nối kết khu vực và ý thức cá biệt và cộng đồng của ASEAN, khuyến khích đối tác với bên ngoài cho hòa bình và phát triển khả chấp, và trau dồi khả năng để thích ứng.  Thêm vào đó, Việt Nam cũng trở thành hội viên thường trực của  Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trong năm 2020, một năm quan trọng đối với một quốc gia đầy hứa hẹn, đánh dấu kỷ niệm năm thứ 25th gia nhập vào ASEAN.

Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ chủ tịch Thái Lan trong năm nay và thành tựu quan trọng của nước nầy trong việc tiến tới Quan điểm của ASEAN về Ấn Độ-Thái Bình Dương (ASEAN Outlook on the Indo-Pacific (AOIP)), một tài liệu dài 5 trang đề cập và thông qua giữa chiến lược Tự do và Rộng mở Ấn Độ-Thái Bình Dương( Free and Open Indo-Pacific (FOIP)) do Hoa Kỳ dẫn đầu và BRI của Trung Hoa.  Với AOIP làm nền tảng để tiến đến quan hệ với 2 siêu cường đang ganh đua với nhau, Việt nam có thể tập chú nhiều hơn vào các ưu tiên tức thời.  Nếu Việt Nam có thể nâng các vấn đề của Mekong lên cùng với Biển Đông vì lực bẫy nặng nề của Trung Hoa từ các đập ở thượng lưu, đó sẽ là một thành tựu không chỉ cho Việt Nam mà còn cho toàn thể lục địa Mekong ở phía nam Trung Hoa.

Sơ lược về tác giả
Thitinan Pongsudhirak: Tác giả là phó giáo sư và giám đốc Viện Nghiên cứu An ninh và Quốc tế, Khoa Khoa học Chánh trị, Đại học Chulalongkorn với trên 25 năm giảng dạy.  Ông tốt nghiệp MA về Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp ở Trường John Hopkins và PhD về Kinh tế ở Trường London, nơi ông đoạt giải nhất về luận án tiến sĩ ở Anh vào năm 2002.


.

No comments:

Post a Comment