(Is Cambodia a new agricultural power?)
Genevieve Donnellon-May – Bình Yên Đông lược dịch
The Bangkok Post – 18 February 2024
Nông nghiệp ở Cambodia.
[Ảnh: Southeastasiaglobe]
Hun Manet, thủ tướng mới của Cambodia và là con trai của thủ
tướng trước là cựu tướng quân đội Hun Sen, vừa loan báo việc thực hiện một
chánh sách chiến lược mới cho việc phát triển nông nghiệp ở địa phương.
Qua chánh sách mới, chánh phủ quốc gia nhắm làm cho Cambodia trở thành một của 10 quốc gia sản xuất nông nghiệp hàng đầu trên thế giới trong khi cũng góp phần vào những nỗ lực rộng lớn hơn để trở thành một nền kinh tế có thu nhập trên trung bình vào năm 2030 và một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2050.
Đó chắc chắn là một mục tiêu đầy tham vọng cho một quốc gia
có nội chiến, bất ổn chánh trị, bạo lực, và cô lập trong nhiều thập niên, khiến
cho nước nầy là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới.
Trong những năm gần đây, an ninh lương thực đã trở thành một vấn
đề trên hết của các lãnh đạo cao cấp của quốc gia. Mặc dù quốc gia đã có tiến bộ đáng kể trong
việc phát triển kinh tế-xã hội trong những năm gần đây, bất an lương thực vẫn
là một vấn đề nghiêm trọng và tiếp diễn giữa nguồn cung cấp thực phẩm khu vực
và toàn cầu và những dao động của giá cả.
Theo một phúc trình gần đây của Liên Hiệp Quốc, khoảng 2,5 triệu người
Cambodia – khoảng 15% dân số - trải qua bất an lương thực nghiêm trọng.
Với 1 dân số khoảng 16,5 triệu người, gần 80% sống trong vùng
nông thôn. Nông nghiệp đóng một vai trò
then chốt trong nền kinh tế của quốc gia.
Dân số của Cambodia dựa nặng nề vào nông nghiệp và thủy sản, sử dụng đến
49% lực lượng lao động của quốc gia và chiếm 22% của tổng sản lương (GDP) của
quốc gia. 65% người Cambodia dựa vào
nông nghiệp, thủy sản, và lâm nghiệp cho cuộc sống của họ.
Nông nghiệp phần lớn vẫn chiếm ưu thế bởi lúa (70%), hoa màu
chánh và hàng hóa xuất cảng quan trọng của quốc gia. Nó đươc theo sau bởi hoa màu phụ và kỹ nghệ
(chẳng hạn như mía) (20%), cao su (7%), và hoa màu thường trưc (chẳng hạn như
hột điều) (4%), khiến cho quốc gia dựa vào lúa.
Tuy nhiên, những thị trường hàng đầu của nó thay đổi, cho
thấy quan tâm và lòng mong muốn để theo đuổi một chiến lược đa dạng. Trong năm 2023, Cambodia xuất cảng gần 8,45
triệu tấn sản phẩm nông nghiệp (4,3 tỉ USD hay khoảng 155,2 tỉ baht) đến khoảng
75 quốc gia và khu vực, với Trung Hoa, Việt Nam và Thái Lan là những thị trường
chánh.
Mặc dù nông nghiệp có thể là một động cơ mạnh của tăng trưởng
kinh tế-xã hội và an ninh lương thực ở Cambodia, một số lo ngại phải được giải
quyết trước tiên.
Sự gia tăng của những tai họa liên quan đến khí hậu (chẳng
hạn như hạn hán nghiêm trọng) cũng nghiêm trọng đáng kể. Cambodia cũng đối mặt với rủi ro tai họa cao
từ lũ lụt và hạn hán một phần vì mức độ cao của sự tiếp xúc và tính dễ tổn thương
và khả năng thích ứng thấp. 4,5 triệu
hectares đất canh tác của Cambodia phần lớn được tưới bằng mưa, khiến cho nước
nầy lệ thuộc vào thời tiết và mưa. Vì
thế, thành phần nông nghiệp đặc biệt dễ bị tổn thương với tai họa liên quan đến
khí hậu, nhiệt độ gia tăng, thời tiết không thể tiên đoán ngày càng tăng, và
chuyển biến lề lối mưa cùng với thiệt hại lớn lao do thủy điện trên khắp Lưu
vực Mekong, có thể ảnh hưởng an ninh lương thực và sức khỏe của con người qua
sự sụt giảm tính có sẵn của nước ngọt, sụt giảm trong sản xuất nông nghiệp và
thủy sản, và gia tăng bệnh tật do nước mang lại.
Những gia đình ở nông thôn, nhất là những nông dân tiểu qui
mô – chiếm đến 75% của 6,8 triệu nông dân của quốc gia, là những người dễ bị
tổn thương nhất, vì họ lệ thuộc vào nông nghiệp cho cuộc sống.
Để giải quyết những vấn đề liên kết với nhau, chánh phủ và
những nhà làm chánh sách có thể khuyến khích đa dạng hóa hoa màu để giảm lệ
thuộc vào lúa, chẳng hạn như trồng nhiều loại hoa màu chống khí hậu và chịu đựng
ít tiêu thụ nước cùng với dẫn thủy.
Những hệ thống cảnh báo sớm để tiên đoán thời tiết và theo
dõi khí hậu cũng có thể được thực hiện để giúp nông dân có những biện pháp
phòng ngừa hay điều chỉnh lối canh tác của họ một cách thích đáng. Australia, có kinh nghiệm đáng kể trong vùng
chẳng hạn như thay đổi việc thích ứng, có thể giúp.
Nguồn nước cũng phải được quản lý tốt hơn. Vì quốc gia trải qua việc khan hiếm nước theo
mùa và đã hạn chế tiềm năng của những cơ sở để thu hoạch và dự trữ để cải thiện
tính có sẵn của nước vì địa hình tương đối bằng phẳng, Cambodia có thể nhìn
sang Australia nơi năng suất sử dụng nước được cải thiện trong thành phần nông
nghiệp (chẳng hạn như các hệ thống dẫn tưới nhỏ giọt) đã giúp làm giảm những lo
ngại áp lực nước. Trong những thập niên
vừa qua, năng suất sử dụng nước của những nhà trồng bông vải Australia đã cải
thiện 40% do gia tăng năng suất và những hệ thống quản lý nước có hiệu quả hơn.
Ngoài việc cải thiện mức sản xuất và hạ tầng cơ sở sau thu
hoạch, cũng như hạ tầng cơ sở giao thông và hậu cần để tăng cường chuỗi giá trị
nông nghiệp -thực phẩm, tiếp xúc với tài chánh và kiến thức cũng nên được cải
thiện cùng lúc với việc gia tăng tiếp cận với những nhập kiện nông nghiệp và
máy móc để gia tăng năng suất lao động.
Cambodia thiếu kỹ thuật chế biến thêm cho việc sản suất những
sản phẩm có giá trị cộng thêm (value-added) là một lo ngại khác. Vì khả năng chế biến sản phẩm nông nghiệp hạn
chế của Cambodia, đại đa số hàng hóa xuất cảng của quốc gia phần lớn là những
sản phẩm không được chế biến. Để đáp
ứng, các nhà làm chánh sách có thể cải thiện khả năng biến chế những sản phẩm
nông nghiệp của Cambodia qua hạ tầng cơ sở, tài chánh và nghiên cứu và phát
triển (R&D) cho việc biến chế và phát triển sản phẩm.
Những cơ hội đầu tư ngoại quốc trực tiếp (FDI) trong thành
phần nông nghiệp của Cambodia cũng không nên bỏ quên. Thương mại hóa và phát triển các kỹ nghệ chế
biến, thí dụ, có thể cung cấp những cơ hội như thế, Một phiên họp giữa chủ tịch của doanh thương
nông nghiệp Á Châu Wilmar International và thủ tướng Cambodia hồi đầu năm cho
thấy quan tâm trong việc làm như thế.
Một số các quốc gia đang gia tăng trong khu vực cũng quan tâm
trong việc hợp tác nông nghiệp và lương thực với Cambodia. Ngoài Australia, một trong những đối tác
chiến lược lâu dài và đối tác phát triển nông nghiệp quan trọng của quốc gia,
đầu tư liên khu vực vẫn có thể có. Vào
tháng 9 năm rồi, một Biên bản Ghi nhớ (MOU) về hợp tác nông nghiệp và phát
triển doanh nghiệp nhỏ được ký kết bởi các quốc gia Đông Nam Á (ĐNA) như một
phần của những nỗ lực rộng lớn hơn của Hiệp hội các Quốc gia ĐNA (ASEAN) để tiến
đến việc kết hợp kinh tế mạnh hơn.
Các quốc gia khác cũng quan tâm. Thí dụ, Indonesia, đối tác mậu dịch lớn nhất
của Cambodia [trong ASEAN], đang nhắm tiềm năng đầu tư vào chén cơm của
Cambodia. Trong tháng 11 năm 2023,
chuyến chở gạo đầu tiên đã đến Indonesia.
Thái Lan, cũng là đối tác mậu dịch lớn thứ 2nd của
Cambodia trong ASEAN, nhắm đạt đến 15 tỉ USD trong mậu dịch song phương, kể cả
mậu dịch nông nghiệp, vào năm 2025.
Ở nơi khác, Nhật Bản dựa vào nhập cảng vẫn quan tâm đến xuất
cảng nông nghiệp của Cambodia, trong khi Nam Triều Tiên đã loan báo họ sẽ tiếp
tục thực hiện những dự án nông nghiệp hỗn hợp với Cambodia.
Đối tác mậu dịch lớn nhất của Cambodia, Trung Hoa, quan tâm
trong việc đầu tư nông nghiệp và hợp tác an ninh lương thực với Cambodia, một
quốc gia Sáng kiến Vành đai và Con đường.
Ngoài việc tham vào thỏa ước an ninh lương thực ASEAN-Trung Hoa, 2 quốc
gia tìm sự hợp tác nông nghiệp song phương mạnh hơn, như những thỏa thuận gần
đây để thiết lập một “Hành lang Cá và Gạo” và một “Hành lang Phát triển Kỹ
nghệ” giữa Trung Hoa-Cambodia, cho thấy,
Ngoài Á Châu, Pháp và Israel đã bày tỏ quan tâm trong việc hợp tác nông nghiệp.
Chú tâm lớn nhất của Cambodia về sản xuất nông nghiệp địa
phương và tham vọng to lớn để trở thành một trong những quốc gia sản xuất nông
nghiệp lớn nhất trên thế giới đối mặt với nhiều thách thức ở trong nước.
Trong khi rõ ràng rằng chánh phủ và những nhà làm chánh sách
sẽ đối mặt với một trận chiến khó khăn trong việc đối phó với những lo ngại
nầy, các cơ hội cho việc hợp tác nông nghiệp và an ninh lương thực quốc tế, khu
vực, liên khu vực và song phương vẫn còn.
No comments:
Post a Comment