Thay đổi khí hậu sẽ nhấn chìm Đồng bằng sông Cửu Long?
Will climate
change sink the Mekong Delta?
David Brown
07/12/2016
Bình Yên Đông lược dịch
Không có đồng bằng nào trên thế giới bị thay đổi khí hậu đe dọa nhiều hơn.
Liệu Việt Nam sẽ hành động kịp thời để cứu vãn?
- Các nhà khoa học cho rằng mực nước biển dâng lên 1 m vào cuối thế kỷ sẽ khiến cho 3,5-5 triệu cư dân Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) dời chỗ. Mực nước biển dâng lên 2 m có thể buộc gấp 3 số người đi đến vùng cao hơn.
- Những thay đổi về mưa và lũ lụt cũng đe dọa một trong những môi trường sản xuất nông nghiệp trù phú nhất trên thế giới.
- Chánh quyền Việt Nam ở Hà Nội hiện nay có trách nhiệm chấp thuận một kế hoạch tổng thể để thích ứng và giảm thiểu thiệt hại (comprehensive adaptation and mitigation plan).
Đây là bài đầu tiên trong một loạt 4 bài phân tích chi tiết nhằm tìm hiểu
những mối đe dọa đối với ĐBSCL và làm thế nào để đối phó.
Một thực tế
đáng buồn là đã có nhiều thập niên để nói về thay đổi khí hậu nhưng vẫn chưa có
những nỗ lực nghiêm chỉnh để thích ứng với hiện tượng hầu như không thể tránh
được này. Theo các nhà tâm thần học vì chúng ta là con người. Chúng ta không
theo kịp những đe dọa to lớn, phức tạp và diễn biến chậm. Phản ứng theo bản
năng của chúng ta là thờ ơ, chớ không hành động. Nghịch lý đó ở trong trí của
tôi trong suốt thời gian trở lại ĐBSCL thần thoại và trù phú của Việt Nam, một
đồng bằng sũng nước rộng bằng Thụy Sĩ. Đây là nơi sinh sống của 20% dân số 92
triệu người Việt Nam và đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi thay đổi khí hậu và
nhân tai, dường như do việc xây đập không ngừng nghỉ trên thượng nguồn sông
Mekong.
Samuel
Johnson từng nổi tiếng khi nói rằng “không có gì gây ấn tượng cho bằng sắp sửa
bị treo cổ”. Đã 9 năm kể từ khi nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới xem ĐBSCL như
là một trong những nơi trên hành tinh bị đe dọa nghiêm trọng bởi mực nước biển
dâng. Nếu ở nơi khác, tôi tưởng tượng, tôi có thể cảm thấy sự khẩn trương. Tôi
sẽ tìm trước những biện pháp thích ứng.
Tôi đã sai.
Các bộ trong Chánh phủ Việt Nam, chánh quyền địa phương, chuyên viên ở các
trường đại học và tổ chức quân sư Việt Nam, chuyên viên của Ngân hàng Thế giới,
Ngân hàng Phát triển Á Châu và các chánh phủ ngoại quốc: tất cả đang đưa ra
những kế hoạch và chánh sách. Vấn đề là phải lựa chọn những ý tưởng tốt nhất,
có quyết định thích hợp và tìm tài nguyên cần thiết để thực hiện một cách chặt
chẽ và đúng lúc.
Mọi việc
cuối cùng có lẽ đã đến, tôi kết luận sau khi nói chuyện với một số quan chức địa
phương, giáo sư, phóng viên và nông dân vào giữa tháng 6. Không ai phủ nhận
thực tế của vấn đề. Nhiều người còn liên kết câu hỏi làm thế nào với thay đổi
khí hậu với những tranh luận trước đây về những cách tốt nhất để canh tác tốt
hơn và nhiều hơn.
Một số người
nói chuyện với tôi mong rằng Chánh phủ mới của Việt Nam sẽ tiết lộ chiến lược
của Chánh phủ vào cuối năm 2016. Họ hy vọng Hà Nội sẽ làm đúng. Việt Nam là một
quốc gia độc đảng. Khi một chánh sách được chấp thuận và truyền xuống, rất khó
để thay đổi đường lối. Tuy nhiên, nếu các biện pháp không hợp lý cho 13 tỉnh
của ĐBSCL, các đại diện đảng/nhà nước/địa phương có thể không thi hành. Ở Việt
Nam, rất thường thấy những viên chức thiếu lương tâm, thực hiện những biện pháp
của Hà Nội theo cách thông thường, không có trách nhiệm, và sau cùng, không có
kết quả.
Vì nguy cơ
rất cao, giả sử rằng chỉ có một câu trả lời đúng: trong vài tháng sắp tới, Hà
Nội sẽ chấp thuận một kế hoạch tổng thể để thích ứng và giảm thiểu thiệt hại
cho 13 tỉnh ĐBSCL, và các tỉnh đủ hài lòng để thực hiện nó. Ít hơn thế sẽ là
một kết quả thảm khốc.
Hình trái:
Sông Mekong và lưu vực. Sông bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng ở Trung Hoa, có
tên là Lan Thương (Lancang); nó chảy qua Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambodia và
Việt Nam.
Hình phải: Hạ lưu vực sông Mekong.
[Ảnh: Wikipedia and Penprapa
Wut/Wikimedia Commons]
Sự thịnh vượng mong manh
Cao độ trung
bình của ĐBSCL cao hơn mực nước biển không quá 2m. Hầu hết rất thích hợp để
trồng lúa. Nông dân cũng trồng cây ăn trái và dừa và nuôi tôm cá. Thu hoạch của
họ phong phú nhờ có lũ lụt hàng năm và hệ thống kinh rạch chằng chịt, đập và
cống.
Đó là một
môi trường được kiến tạo cao, một xã hội được thủy lợi hóa hiện đại dựa trên
thâm canh và cơ sở hạ tầng phản ánh lũ lụt, xâm nhập của nước mặn, giao thông
thủy và ngư nghiệp, và cung cấp đủ nước ngọt cho thủy nông [?]. Dĩ nhiên, không
phải lúc nào cũng thế. Khi những người Việt đầu tiên định cư ở ĐBSCL cách đây
300 năm, họ đương đầu với địa hình thay đổi bởi gió mùa, bão tố, thủy triều và
lũ lụt hàng năm của sông Mekong. Các quan lại triều đình, và sau đó là các kỹ
sư thuộc địa người Pháp, đã huy động hàng ngàn người tiên phong để đào kinh dẫn
thủy và thoát thủy. Theo thời gian, công việc xây dựng cơ sở hạ tầng được cơ
giới hóa. Nhiều thập niên chiến tranh làm chậm việc thuần hóa ĐBSCL, nhưng ngay
trong những năm “Chiến tranh Chống Mỹ (American War)” cũng có cải cách ruộng
đất và du nhập cái gọi là “lúa thần kỳ (miracle rice)” – một giống lúa có thể
cho gấp đôi năng suất nếu có đủ nước, phân và thuốc trừ sâu.
Trực thăng
võ trang trên ĐBSCL năm 1967. Ảnh: ManhHai/Flickr.
Các viên
chức miền Bắc vào Nam sau khi chánh quyền miền Nam sụp đổ năm 1975 có ý định
cải cách nông nghiệp theo kiểu Xô Viết, như họ đã làm ở Đồng bằng sông Hồng ở
miền Bắc. Tuy nhiên, tập thể hóa không mang lại kết quả. Nông dân không chăm
sóc những thửa ruộng hợp tác xã giống như họ chăm sóc hoa màu trên đất riêng
của họ. Mười năm sau, Hà Nội thừa nhận thất bại của kế hoạch tập trung, tái
phân phối đất nông nghiệp và cho phép kinh tế tư nhân hoạt động cùng với các
công ty quốc doanh.
Những cải
cách gọi là “đổi mới” này đã đưa đến sự phát triển kinh tế đáng ngạc nhiên cho
Việt Nam trong ¼ thế kỷ. Đối với ĐBSCL, tiền cho vay và viện trợ từ các quốc
gia Tây Phương tài trợ cho việc sửa sang và nới rộng cơ sở hạ tầng thủy lợi. Sự
du nhập các loại lúa cao sản, nới rộng diện tích trồng lúa và chú trọng vào
việc trồng hai mùa, và nhiều nơi, ba mùa khiến cho sản lượng lúa gia tăng nhanh
chóng, từ 7 triệu đến 24 triệu tấn mỗi năm. Việc Việt Nam hội nhập vào hệ thống
thương mại toàn cầu mở rộng thị trường cho lúa gạo và các nông sản mới – đặc
biệt là tôm và cá tra nuôi trong ao hồ.
Dĩ nhiên là
có những hoài nghi về tính bền chắc (sustainability) của sự thịnh vượng chưa hề
có này. Một số nhà khoa bảng thắc mắc về sự khôn ngoan của việc tập chú không
ngừng vào việc độc canh lúa. Họ nói rằng trong những vùng không còn bị ngập lụt
hàng năm, cần phải có một số lớn phân hóa học và thuốc trừ sâu để duy trì sản
lượng. Nhiều nông dân than phiền rằng Công ty Lương thực miền Nam của nhà nước
hưởng lợi từ việc buôn bán lúa gạo của họ trồng. Khi nền kinh tế lương thực của
quốc gia chuyển từ khan hiếm qua dư thừa, Hà Nội vẫn tiếp tục chú tâm đến “an
toàn lương thực (food security)” – có nghĩa là, ở ĐBSCL, dành riêng hơn ½ đất
canh tác cho việc trồng lúa – càng ngày dường như càng lỗi thời.
Nhưng, khi
sản lượng lương thực và xuất cảng tăng hàng năm, có thể tưởng rằng thịnh vượng
sẽ thường trực với ĐBSCL. Chỉ mong rằng những cảnh báo của các nhà nghiên cứu
thay đổi khí hậu, các đập khổng lồ đang được xây cất ở thượng lưu, và lợi tức thấp
triền miên của nông dân trồng lúa sẽ không bao giờ đến.
Cồng báo động: tương lai đã đến
Đã nhiều
năm, Dương Văn Ni và các công sự ở Đại học Cần Thơ đã cảnh báo mọi người có
quan tâm đến những thay đổi của ĐBSCL. Dữ kiện đã có và có tính thuyết phục.
Vào một buổi
chiều giữa tháng 6, khi mưa mùa đập trên mái tôn của quán cà phê ở gần trường,
Giáo sư (GS) Ni chỉ cho tôi trường hợp (scenario) mà nhân viên của DRAGON
(Delta Research and Global Observation Network (Hệ thống Quan sát Toàn cầu và
Nghiên cứu Đồng bằng)) đã thực hiện và trình bày với vô số cử tọa. Nó kết hợp
hơn 100 năm dữ kiện khí hậu và thủy học với hệ thống GIS (geographic
information system) và dữ kiện viễn thám do Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ
(U.S. Geological Survey USGS) cung cấp.
Ảnh ĐBSCL
chụp từ vệ tinh của NASA.
Không có một
vùng đồng bằng nào – không phải cửa sông Ganges, sông Nile hay sông Mississippi
– dễ bị tổn thương hơn cửa sông Mekong đối với những ảnh hưởng thay đổi khí hậu
được tiên đoán. Mực nước biển dâng 1 m được dự đoán vào cuối thế kỷ 21st,
mọi thứ khác giống nhau, sẽ dời chỗ từ 3,5 đến 5 triệu người. Nếu mực nước biển
dâng lên 2 m, và nếu không có những biện pháp đối phó có hiệu quả, khoảng 75%
dân số 18 triệu của ĐBSCL sẽ phải dời lên chỗ cao hơn.
GS Ni nói, lượng
mưa vào đầu mùa mưa năm nay đã giảm đáng kể, và sẽ có nhiều mưa vào cuối mùa.
Đỉnh lũ của sông Mekong giảm 1/3 kể từ năm 2000. Nước từ thượng nguồn chứa ít
phù sa để bồi đắp vùng ngập lụt. Khối lượng nước ngọt giảm trong khi mực nước
biển dâng cao. Điều nầy khiến cho nước mặn xâm nhập càng ngày càng sâu vào các
cửa sông và vùng đất ngập nước ven biển trong mùa khô.
Mô hình của
khuynh hướng hiện nay cho thấy nhiệt độ trung bình của ĐBSCL sẽ tăng trên 3 oC
vào cuối thế kỷ này. Lượng mưa hàng năm sẽ giảm trong nửa thế kỷ đầu, và sau đó
sẽ tăng cao hơn mức trung bình của thế kỷ 20th. Vùng ngập lụt trong
mùa thu không thay đổi nhiều, nhưng lũ sẽ không kéo dài.
Mọi thứ khác
như nhau, năng suất lúa sẽ tụt giảm khi nhiệt độ tăng lên [?]. Mưa nhỏ trong
những tháng đầu của mùa mưa là một thách thức cho sự khéo léo của nông dân. Mực
nước biển dâng và lưu lượng của sông giảm sẽ là một thử thách nghiêm trọng cho
hệ thống đê biển. Bờ sông và bờ biển ĐBSCL đã vỡ vụn; và nó sẽ tăng tốc. Nông
dân không có khả năng đối phó sẽ di cư về phía bắc để tìm việc làm trong ngành
kỹ nghệ và xây cất.
Chưa hết. Ở
slide 70 (trong số 86 slides) của phần trình bày DRAGON, sự chú ý được chuyển
sang việc xây cất đập ở thượng lưu đối với cơ chế thủy học của ĐBSCL. Đối với
Trung Hoa, Lào và Thái Lan, tiềm năng thủy điện của sông Mekong dường như là
một cơ hội phát triển không thể cưỡng lại được. Có thể tất cả các đập mà họ dự
trù sẽ không được xây ngang sông chánh Mekong. Dù có một vài hay nhiều đập, ảnh
hưởng của chúng đối với nông nghiệp của Việt Nam và Cambodia sẽ rất tiêu cực.
GS Ni, các cộng sự của ông ở Đại học Cần Thơ, và chuyên viên ở các tổ chức khác
ở miền Nam đã gióng tiếng cồng báo động trong nhiều năm. Chuỗi đập là mối nguy
hiểm gần và dễ thấy hơn, và hiển nhiên thay đổi khí hậu thì không thể dừng
được.
Phần trình
bày của DRAGON kết thúc với lời kêu gọi hành động. Tương lai ảm đạm nhưng không
phải tuyệt vọng nếu những chiến lược thích ứng và giảm thiểu thiệt hại thích
hợp được đề ra. Cái mà ĐBSCL cần là: phát triển bền và chắc (sustainable
development) dựa trên nền tảng hữu hiệu của an toàn nguồn nước, an toàn lương
thực và an toàn xã hội.
(Xin xem tiếp bài 2)
No comments:
Post a Comment