Bài viết của
GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân - Nguyên Chủ nhiệm Chương trình cấp Nhà nước Điều tra
cơ bản tổng hợp ĐBSCL về tình hình sạt lở ở khu vực này.
Tình hình sạt lở
bờ sông, bờ biển ở ĐBSCL ngày càng nhiều và nghiêm trọng.
Các nguyên nhân
cơ bản thường được nói đến thời gian gần đây là do thiếu hụt trầm tích bị các đập
thủy điện trên dòng chính sông Lancang – Mekong giữ lại, và do lạm khai thác
cát sông.
Hiểu sâu để có giải
pháp tốt. Nhằm mục đích này, xin đóng góp một số ý kiến vào nhận thức khách
quan vấn đề sạt lở và từ đó một số việc cần làm theo thiện ý của tác giả.
1. Trước tiên, việc
sạt lở bờ sông ở đồng bằng đã từng xảy ra trong những thập niên 1980 và trước
đó, tại thị xã Sa Đéc, thị xã Hồng Ngự và nhiều nơi khác nữa, mỗi lần đã từng
“nuốt chững” hàng chục căn nhà kiên cố. Lúc đó chưa có đập thủy điện nào ở thượng
nguồn. Bởi lẽ bồi lở hai bờ của một con sông là tất yếu và có tính quy luật.
Không chỉ thấy sạt lở mà quên yếu tố bồi. Trong sạt lở có bồi và ngược lại.
2. Sau khi sạt lở,
các cơ quan chức năng ở An Giang đã đo địa hình lòng sông trong khu vực sạt lở.
Đã “thấy” một hố sâu đến -43 mét và vách đứng nơi sạt lở (Hình 1). Chúng ta sẽ
trở lại dưới đây về các hố sâu giữa sông, các vách đứng dọc bờ, kết quả tác động
của dòng chảy lên lòng sông và bờ sông.
Hình 1. Ngã ba sông Hậu – sông Vàm Nao (trái) và nơi sạt lở phóng to (phải). Nguồn: Tỉnh An Giang |
Một tài liệu
nghiên cứu (1) chỉ ra hơn 400 hố sâu trong dòng chính trong hạ lưu vực
sông Mekong, trong đó có 22 ở đồng bằng sông Cửu Long (Hình 2 trái). Ở hai đầu
và dọc sông Vàm Nao nối liền sông Tiền và sông Hậu có những hố sâu.
Có hai điều đáng
lưu ý: (a) các hố sâu là nơi cư trú của các loài thủy sản, nhất là vào mùa khô;
(b) các hố nằm trong vùng có địa hình cao của An Giang và Đồng Tháp, và ở những
khúc quanh hoặc ở nơi hợp lưu của dòng chảy (Hình 2 phải).
Hình
2. 22 hố sâu trên sông Tiền và sông Hậu và địa hình An Giang, Đồng Tháp. Nguồn
của sơ đồ địa hình: Chương trình 60-B
3. Trên dưới 10
năm nay, chiều ngang sông Vàm Nao và sông Hậu bị thắt lại bởi doi đất mới được
bồi ở huyện Phú Tân. Sông Hậu còn bị thu hẹp do cù lao Bình Mỹ, huyện Châu Phú
được bồi về phía hữu ngạn. Tình hình bồi tụ và xói lở ở ngã ba sông Hậu – sông
Vàm Nao diễn biến khá nhanh (Hình 3).
Hình
3. Ngã ba sông Hậu – Vàm Nao, dòng chảy, bồi tụ và xói lở. Nguồn: Google Earth
Diễn biến
này chắc chắn đã góp phần vào sạt lở ở ấp Mỹ Hội. Điểm sạt lở nằm trong khu vực
dòng chảy sông Hậu đạp thẳng vào địa bàn Tổ 13, ấp Mỹ Hội và bị dòng chảy sông
Vàm Nao đẩy lệch về phía Nam.
Sạt lở ở ấp Bình
Hòa, xã Bình Thạnh, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp các ngày 3,4, và 7,8 tháng
4.2017 có rất nhiều điểm tương đồng.
Khu vực sạt lở nằm
trong vùng sông Tiền đạp thẳng vào tả ngạn sông Tiền dọc theo QL 30, và bị dòng
chảy từ Cồn Én dịch chuyển xuống phía Nam (Hình 4). Chiều ngang sông Tiền ở đoạn
sạt lở co thắt lại đáng kể (Hình 5).
Hình
4. Khu vực sạt lở ở tả ngạn sông Tiền, ấp Bình Hòa. Đối diện là khu vực đang được
bồi
Hình
5. Chiều ngang sông Tiền thắt lại đáng kể ở khu vực sạt lở
4. Dòng chảy một
con sông có mặt thoáng (là mặt sông) và có biên là đáy sông và bờ sông. Ở đồng
bằng sông Cửu Long, đáy sông và bờ sông thuộc loại đất nền yếu, có thể biến dạng
dưới tác động của dòng chảy, tuân thủ ba định luật cơ bản của thủy động lực học
là bảo toàn khối lượng, động lượng và năng lượng. Cần nhấn mạnh thêm rằng các
tác động này không phải nhất điểm, nhất thời mà còn lũy tích theo không gian và
theo thời gian.
Những điều mang
tính quy luật trên đây giải thích sự hình thành của các hố sâu, bờ sông vách đứng,
các “hàm ếch” mà dòng chảy có thể khoét vào bờ sông.
Kè hóa bờ sông biến
biên bờ sông mềm (biến dạng được) thành biên cứng. Trong trường hợp lưu lượng về
nhiều, nếu dòng chảy không tràn bờ được, vận tốc sẽ tăng, năng lượng không được
tiêu hao ở nơi có kè sẽ tác động mạnh hơn về hạ lưu nơi không còn kè, thậm chí
còn phá hỏng cả kè. Do vậy việc kè hóa cần được tính toán kỹ mặt được – mặt mất
với các hệ quả lũy tích.
Thiếu trầm tích
mà nó chuyển tải, dòng chảy sẽ tiêu hao năng lượng bằng cách tác động lên các
biên là bờ sông, lòng sông và cồn bãi trong sông.
5. Các đập
thủy điện trên dòng chính giữ lại trầm tích làm thay đổi địa hình lòng sông, bờ
sông, cửa sông và đường bờ biển. Nhắc lại đã xảy ra sạt lở trước khi có các đập
thủy điện ở thượng nguồn không mâu thuẫn chút nào với khẳng định này bởi lẽ khối
lượng lớn trầm tích bị giữ lại gây nên cán cân trầm tích âm ở đồng bằng sông Cửu
long, nguyên nhân cơ bản gây sạt lở nhiều hơn, nghiêm trọng hơn.
Điều tác giả thấy
cần nhấn mạnh, và không bao giờ thừa, là đồng bằng được hình thành từ 5.500 đến
6.000 năm nay từ quá trình biển rút và từ trầm tích được sông Mekong tải ra biển
Đông. Hiện nay, đồng bằng đang ở trong giai đoạn đầu của một quá trình ngược lại:
biển dâng và trầm tích về chỉ còn 25% nếu 14 đập thủy điện Trung Quốc và 11 đập
thủy điện trên dòng chính sông Lancang – Mekong đi vào hoạt động (2). Có nghĩa
là đồng bằng bị đe dọa trong chính sự tồn tại của mình.
6. Thêm vào đó là
tình trạng khai thác cuội, sỏi và cát sông Mekong tại địa bàn.
Hình 6 cung cấp số
liệu khai thác năm 2011, 2012 của Lào, Thái Lan, Campucia và Việt Nam, trích từ
một công trình nghiên cứu nước ngoài (3).
Hình
6. Số liệu khai thác cuội, sỏi, và cát sông Mekong năm 2011, 2012
Một công trình
khác (4) giải đoán ảnh vệ tinh độ phân giải cao, đánh giá tổng lượng cát mất
đi trên hai đoạn sông Tiền và sông Hậu, thời đoạn (1998 – 2008) như hình 7.
Hình
7. Lượng trầm tích đáy sông mất đi dọc hai đường thủy trực sông Tiền và sông Hậu
Tài liệu đã dẫn
trên đây còn cung cấp tình hình bồi lở đường bờ biển đồng bằng sông Cửu Long, từ
năm 2003 đến 2011/2012. (Hình 8).
Hình
8. Bồi và lở dọc 3 đoạn đường bờ biển ĐBSCL (dưới); chiều sâu bồi và lở (m/năm)
và diện tích bồi, lở (km2/năm) dọc 3 đoạn đường bờ biển ĐBSCL từ năm 2003 đến
2011/2012
7. Làm gì để hạn
chế sạt lở?
Xin đề xuất một số công việc cần được triển khai càng sớm càng tốt.
(a) Trước hết,
Nhà nước và người dân cần nhận thức rõ các thách thức mà đồng bằng đang đối diện
và hành động tương ứng vì sự phát triển bền vững của đồng bằng. Cụm từ “Người
dân” bao gồm bà con nông ngư dân, các chủ nông hộ, các doanh nghiệp, các viện,
trường và các nhà khoa học.
(b) Hiểu rõ các
quy luật của dòng chảy sông trong một châu thổ tương đối phẳng, chịu ảnh hưởng
mạnh của thủy triều, trong bối cảnh các thách thức; tuân thủ các quy luật này
trong các quy hoạch, đặc biệt quy hoạch thủy lợi và đô thị. Hạn chế tối đa tác
động đến đường bờ biển.
(c) Làm tốt công
tác quản lý nhà nước: (a) trong quan trắc, theo dõi các yếu tố thủy văn, hải
văn, trầm tích, nước biển dâng; (b) trong quản lý khai thác tài nguyên (đất, nước,
cát sông và nước ngầm), và (c) trong dự báo các khu vực, các điểm có khả năng xảy
ra sạt lở.
(d) Xây dựng các
cơ sở dữ liệu chuyên ngành và chuyên đề, được kết nối với nhau. Phát huy các khả
năng kết nối giữa internet đám mây và internet kết nối vạn vật để xây dựng quy
chế sử dụng mở cho các viện, trường, các nhà khoa học khai thác các cơ sở dữ liệu
này.
(e) Tập hợp các
chuyên gia, đầu tư để sớm làm chủ một số mô hình với số liệu địa hình luôn được
cập nhật để chủ động trong công tác mô phỏng, áp dụng cho những vùng cần theo
dõi sạt lở.
(g) Khai thác ảnh
vệ tinh, đặc biệt ảnh vệ tinh VNREDSAT 1 của Việt Nam để theo dõi sạt lở.
(h) Dòng chảy
tuân thủ quy luật tự nhiên, không theo ranh giới hành chính. Cần sớm thể chế
hóa việc liên kết vùng để tối ưu hóa việc phòng chống sạt lở.
(i) Có dự án để đẩy
mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng nhẹ cho nền đất yếu, bền trong môi trường ngập,
mặn phục vụ các công trình thủy lợi, giao thông và dân dụng.
(k) Kiên trì xây
dựng một cơ chế sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong, trong đó quyền và lợi
ích của mỗi quốc gia phải đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ đối với cả lưu vực.
Cơ chế này cần được quy định bằng một điều ước quốc tế. (tham khảo Công ước
Liên hiệp quốc về dòng chảy các sông Vienne 1997, Công ước về sông Rhin của Cộng
đồng châu Âu, cải tiến Hiệp định MRC 1995).
Trước mắt, có quy
định về việc chia sẻ các số liệu thủy văn, cơ chế vận hành của đập thủy điện giữa
các nước trong lưu vực. Phải là một yêu cầu mang tính bắt buộc để quản lý tốt
nguồn nước sông Mekong và các rủi ro từ biến đổi khí hậu trong lưu vực.
..........................................................................
Chú thích:
(1) MRC, Atlas of deep pools in the Lower Mekong River and some of its tributaries, MRC Technical Paper N.31, August 2013.
(2) C.Thorne, G.Annandale, J.Jensen, Review of Sediment Transport, Morphology, and Nutrient Balance, Part of The MRCS Xayaburi Prior Consultation Project Review Report, March 2011.
(3) Bravard J.P., Goichot M., Gaillot S. Geography of Sand, and Gravel Mining in the Lower Mekong River, First Survey and Impact Assessment, EchoGeo, 26 (2013), 10 – 12 2013.
(4) E.J. Anthony et all, Linking rapid erosion of the Mekong river delta to human activities, Scientific Report | 5:14745 | DOI: 10.1038/srep14745, 8 October 2015.
(1) MRC, Atlas of deep pools in the Lower Mekong River and some of its tributaries, MRC Technical Paper N.31, August 2013.
(2) C.Thorne, G.Annandale, J.Jensen, Review of Sediment Transport, Morphology, and Nutrient Balance, Part of The MRCS Xayaburi Prior Consultation Project Review Report, March 2011.
(3) Bravard J.P., Goichot M., Gaillot S. Geography of Sand, and Gravel Mining in the Lower Mekong River, First Survey and Impact Assessment, EchoGeo, 26 (2013), 10 – 12 2013.
(4) E.J. Anthony et all, Linking rapid erosion of the Mekong river delta to human activities, Scientific Report | 5:14745 | DOI: 10.1038/srep14745, 8 October 2015.
GS. TSKH Nguyễn
Ngọc Trân -Nguyên Chủ nhiệm Chương trình cấp Nhà nước Điều tra cơ bản tổng hợp
ĐBSCL (1983 – 1990); Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X, XI.
No comments:
Post a Comment