Source:
Hình 1. Bản đồ Sài Gòn năm 1815 |
Cách đây
314 năm (1698), Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh chọn Bến Nghé trên bờ sông Sài Gòn
làm cơ sở hành chánh, quân sự và thương mại. Địa điểm này là nơi cao ráo, sát
bờ sông, thuận tiện cho thuyền tàu từ Biển Đông vào vì chỉ cách biển 60 km. Sài
Gòn nằm ở hạ lưu sông Sài Gòn và sông Đồng Nai, có nhiều sông rạch chi chit nối
với sông Tiền, sông Hậu, nên cũng là trung tâm xuất phát đường thủy đến các
vùng khác thuộc Thủy Chân Lạp, và đến tận Cao Miên. Về mặt địa hình, Sài Gòn là
vùng đất thấp, ranh rừng sác Đồng Tháp Mười chạy tới biển.
Đến thời
Pháp thuộc, Sài Gòn phát triển rộng thêm trên vùng đất cao, theo hướng bắc và
đông bắc, tức hướng Gia Định Biên Hòa. Vào năm 1862 Sài Gòn có diện tích 25
km2, hoàn toàn nằm trên địa hình cao của bờ sông. Dân số năm 1929 là 123.890
người trong số đó có 12.100 người Pháp. Vì ở địa thế cao, từ ngày thành lập cho
tới cuối thập niên 1960, Sài Gòn không có bị ngập lụt.
Tuy nhiên trong vòng 40 năm nay, Sài Gòn bị ngập lụt ngày càng trầm trọng (15).
Ngày nay (2010), Sài Gòn có diện tích 2.095 km2, khoảng cách Bắc (Phú Mỹ Hưng)
– Nam (Long Hòa, Cần Giờ) là 102 km, khoảng cách Đông (Long Bình) – Tây (Bình
Chánh) là 47 km, với dân số chính thức khoảng 8 triệu, cộng thêm cư dân lậu có
thể khoảng trên dưới 10 triệu.
Hình 2. Lưu vực sông Sài Gòn, Đồng Nai và hệ thống sông rạch thiên nhiên (2) |
Cao độ tại trung tâm Sài Gòn (Quận 1) là 3 m trên mực nước biển. Tính trên diện tích toàn thành phố, gần 60% diện tích (120.000 ha) là vùng đất thấp dưới 1,5m trên mực nước biển, với mạng lưới sông rạch chằng chịt (7.880 km kinh rạch chính) (25).
Hiện nay, 154/322 xã phường (gần 50%) của Sài Gòn thường xuyên bị ngập lụt (2, 17). Diện tích ngập tại Sài Gòn hiện nay vào khoảng 35 km2 trên diện tích đất xây dựng, và 230 km2 trên diện tích đất nông nghiệp; và số dân bị ảnh hưởng bởi ngập nước khoảng 1,8 triệu người (20). Dự đoán đến năm 2050 con số này là 177 phường xã (chiếm 61%) (17). Sau hơn 10 năm chống ngập lụt, Sài Gòn vẫn còn khoảng 100 điểm ngập, mặc dù 75% các điểm ngập có vị trí cao hơn ít nhất 1 m so với mực nước cao nhất trên sông Sài Gòn ghi nhận tại trạm Phú An (2). Chẳng hạn, nhiều địa điểm trước đây không bao giờ bị ngập, như vùng ngã tư Bốn Xã thuộc quận Bình Tân, có cao độ gần 3m, nay cũng bị ngập và ngập rất sâu (2).
Theo báo chí Việt Nam, dân chúng Sài gòn bắt đầu đối diện với tình trạng ngập
lụt được nhận định là “ngoài sức tưởng tượng”. Chẳng hạn, đợt ngập lụt xảy ra
vào ngày 15 tháng 12 năm 2008 được xem là chưa từng có suốt 50 năm vừa qua, khi
mức nước ngập dâng lên tới 1,55 m (4).
Hiện nay (2010), toàn thành phố có 100 điểm ngập lụt, trong số này có 85 điểm
ngập trầm trọng, gồm 12 điểm ở lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè; 28 điểm ở lưu vực
Hàng Bàng; 7 điểm ở lưu vực Tàu Hủ -Bến Nghé – Kinh Đôi – Kinh Tẻ; 11 điểm ở
lưu vực Tân Hóa – Lò Gốm; và 16 điểm rải rác nhiều lưu vực khác (15)
Kể từ 2001, những địa điểm ngập quan trọng trong mùa mưa là Bùng Binh Cây Gõ,
Bến xe Chợ Lớn, nhiều khu vực ở quận 1, 3, 5, 11, Bình Thạnh, Gò Vấp. Vùng ngập
lụt trầm trọng đáng kể nhất là khu vòng xoay Phú Lâm, cửa ngõ phía tây thành
phổ, bao gồm các đường: Hậu Giang, Hùng Vương, Kinh Dương Vương, Minh Phụng.
Tại quận Bình Thạnh, các đường Chu Văn An, Bùi Đình Túy, Đinh Bộ Lĩnh, Bạch
Đằng hay Miếu Nổi cũng thường xuyên bị ngập nặng. Ở khu vực ngã tư Bốn Xã,
thuộc quận Bình Tân, nơi có tốc độ đô thị hóa cao, tình trạng ngập úng còn trầm
trọng hơn (22).
‘Rốn Lũ Trong lòng đô thị’, được báo chí đặt tên, rộng 350 ha gồm khu vực vòng
xoay Cây Gõ toả ra các quận 5, 6 và 11, như các đường Châu Văn Liêm Hồng Bàng.
Ở khu vực này nước không những ngập đường phố mà còn tràn cả vào nhà dân, mỗi
khi mưa kéo dài (10, 22). Những tuyến đường gần khu vực Bến xe Chợ Lớn, như
đường Lê Quang Sung, Nguyễn Thị Nhỏ (phường 2, quận 6) chỉ cần có mưa xuất hiện
khoảng 15 phút là nước ngập lên quá đầu gối (22).
Nhiều nơi chìm sâu trong nước 2-3 ngày mới rút, gây khổ cực, phiền phức cho dân cư. Khu vực bán đảo Thanh Đa (Bình Thạnh), đường Mễ Cốc 1, 2 (quận 8), khu Ba Bò (Thủ Đức) cũng là những nơi nổi tiếng vì ngập úng. Đáng lạ hơn là ngay cả khu vực gần kinh rạch vẫn bị ngập như quận Tân Bình, cạnh kinh Nhiêu Lộc, hay như vùng nằm dọc theo sông Bến Cát, quận Gò Vấp (22)
Nhiều nơi chìm sâu trong nước 2-3 ngày mới rút, gây khổ cực, phiền phức cho dân cư. Khu vực bán đảo Thanh Đa (Bình Thạnh), đường Mễ Cốc 1, 2 (quận 8), khu Ba Bò (Thủ Đức) cũng là những nơi nổi tiếng vì ngập úng. Đáng lạ hơn là ngay cả khu vực gần kinh rạch vẫn bị ngập như quận Tân Bình, cạnh kinh Nhiêu Lộc, hay như vùng nằm dọc theo sông Bến Cát, quận Gò Vấp (22)
I.
NGUYÊN NHÂN NGẬP LỤT
1. Nguyên nhân do thiên nhiên.
1.1. Ngập lụt do mưa.
Sài Gòn có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến 11, mùa
khô từ tháng 12 đến 4. Vũ lượng trung bình hàng năm khoảng 2.000 mm, 80% xảy ra
trong mùa mưa. Lượng mưa tối đa hàng ngày là 200 mm, lượng mưa hàng giờ tối đa
là 50 mm (22). Theo kết quả khảo sát của JICA, dựa trên vũ lượng đo được tại
Trại Khí Tượng Tân Sơn Nhất từ ngày thành lập đến năm 2001, những cơn mưa có vũ
lượng lớn xuất hiện rất ít. Trung bình cứ 3 năm mới xuất hiện một cơn mưa có vũ
lượng 85,36 mm, và 5 năm mới xuất hiện một trận mưa có vũ lượng 95,91 mm (22).
Cơn mưa ngày 5/6/2006 tại Sài Gòn kéo dài gần 1 giờ đồng hồ với lượng mưa đo
được 75 mm đã gây ra 20 điểm ngập. Trận mưa chiều tối 30/6/2006 cũng gây 5 điểm
ngập nặng (22).
Trận mưa ngày 21/7/2009 kéo dài 4 tiếng gây ngập lụt trầm trọng. Tại trạm khí
tượng Mạc Đỉnh Chi (Q.1 Sài Gòn) lượng mưa đo được từ 13 giờ 30 đến 15 giờ là
82 mm, nếu tính mưa cả ngày tổng cộng 100 mm. Khu bị ngập nặng nhất là các
tuyến đường xung quanh bùng binh Cây Gõ, bến xe Chợ Lớn, chợ Tân Thành, đường
Nguyễn Thị Nhỏ, Hồng Bàng, An Dương Vương, Ba Tháng Hai, v.v. thuộc các quận 5,
6 và 11. Đường Lê Hồng Phong, Ba Tháng Hai và một số con đường lân cận thuộc
Q.10 cũng bị ngập nặng. Trung tâm Q.1 cũng bị ngập trên các trục đường chính
như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Cư Trinh, Cống Quỳnh, Lê Lai, Lê Lợi, Calmette,
Nguyễn Cảnh Chân, Lê Thánh Tôn. Khu dân cư Văn Thánh Bắc (Q. Bình Thạnh) nước
tràn vào nhà. Coi như tất cả thành phố Sài Gòn bị ngập (2).
Đợt ngập lụt xảy ra vào ngày 15 tháng 12 năm 2008, được xem là chưa từng có
suốt 50 năm vừa qua, khi mức nước ngập dâng lên tới 1,55 mét (4).
Theo các chuyên gia thủy lợi, từ năm 2003 đến nay, Sài gòn rất dễ ngập, kể cả khi lượng mưa trung bình chỉ từ 30 mm đến 40 mm (4).
Theo các chuyên gia thủy lợi, từ năm 2003 đến nay, Sài gòn rất dễ ngập, kể cả khi lượng mưa trung bình chỉ từ 30 mm đến 40 mm (4).
1.2. Ngập lụt do thủy triều cao (triều cường).
Nước sông Sài Gòn chịu ảnh hưởng
chế độ bán nhật triều Biển Đông (mỗi ngày có 2 lần thủy triều lên, 2 lần thủy
triều xuống). Thủy triều cao (triều cường) ở cửa biển Vũng Tàu là 4,00 m (lớn
nhất ở Việt Nam). Càng vào nội địa, thủy triều thấp dần. Tại Trạm Nhà Bè (ngã
ba sông Nhà Bè, Lòng Tàu, Xoài Rạp, cách biển khoảng 45 km), thủy triều cao
1,27 m đến 1,50 m. Tại trạm Phú An (Phường Bến Nghé, Quận 1 Sài Gòn, cách biển
60 km) thủy triều cao từ 1,23 m đến 1,46 m. Riêng đêm 25/11/2007, đỉnh triều
cao tại Phú An 1,49 m (15).
Trước 1975, dân Sài Gòn chưa hề nghe từ “triều cường” và “ngập lụt do triều
cường”, mặc dầu hiện tượng thủy triều lên xuống vẫn xảy ra với cường độ không
thay đổi từ trước tới nay tại cửa biển (20), nhưng mực nước triều cường trên
sông, như tại Phú An thì lại rất cao so với ngày xưa (21). Mực nước tại Phú An
chỉ bắt đầu tăng đột biến từ những năm đầu thập niên 1990, trùng với thời kỳ
phát triển đô thị mạnh mẽ của thành phố (20).
Đợt triều cường ngày 29/10/2007 ở mức 1,48 m tại trạm Phú An trên sông Sài Gòn,
là mức thủy triều cao nhất tại trạm Phú An trong 48 năm qua, kể từ năm 1960,
gây ngập lụt trầm trọng ở Sài Gòn.
Đợt triều cường ngày 7/11/2010 kéo dài trong 3 ngày, đỉnh triều đo tại trạm Phú
An là 1,56 m, cao kỷ lục trong 50 năm, gây ngập lụt nặng bao gồm quận 8, quận
Bình Thạnh, một phần của quận Thủ Đức, quận 12, huyện Hóc Môn, vùng đất trước
kia vốn là vùng trũng, thấp, nơi trữ nước mỗi khi triều dâng, nay được đô thị
hóa (18). Nhiều đoạn đê ở quận Thủ Đức, quận 12 bị vỡ, có nơi ngập sâu 0,50 m
(1). Cũng trong đợt triều cường này, mưa lớn kết hợp với triều cường khiến áp
suất nước trong cống lớn, đẩy nhiều nắp cống bung ra, tạo thành hố nước xoáy
trên đường.
Vì địa thế thấp, Sài Gòn ngày nay dễ bị ngập lụt. Không cần mưa, Sài Gòn vẫn bị
ngập lụt khi có thủy triều cao, nhất là trong những tháng 10, 11 hàng năm (4).
Trong dịp có thủy triều cao, nếu có mưa to, bão, lũ lụt Miền Tây và Đồng Tháp
Mười xảy ra thì Sài Gòn ngập lụt càng trầm trọng. 70% diện tích Sài Gòn bị ảnh
hưởng bởi triều cường (2).
1.3. Ngập lụt do lũ lụt Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ.
Năm 2000, Sài gòn ngập lụt là
do lũ Tây Nam Bộ và lũ Đông Nam Bộ, do mưa và triều cường lớn (5). Lũ Tây Nam
Bộ tràn vào sông Vàm Cỏ Đông gây nên ngập lụt phần tây nam Sài Gòn, vượt qua
mức lũ năm 1996. Cũng trong lũ năm 2000, khu Đông Nam Bộ nhận một vũ lượng lớn
tới 200 mm trong 3 ngày liên tục 9-11/10/2000 làm nước sông hồ dâng cao. Riêng
ở vùng Tây Ninh trong lưu vực hồ Dầu Tiếng nhận một vũ lượng tổng cộng bất
thường tới 2173,3 mm vượt quá vũ lượng mưa thiết kế 328 mm (5). Vì vậy Hồ Dầu
Tiếng phải xả lũ từ 7-15/10 với lưu lượng 200-600 m3/s, hồ Trị An từ 10-23/10
một lưu lượng lớn 2.550 m3/s, và Hồ Thác Mơ từ 10-19/10 một lưu lượng 1480 m3/s
(5). Tại lưu vực ven sông Sài Gòn, Đồng Nai triều cao kết hợp với mưa lớn và xã
lũ của 3 hồ cùng lúc gây ngập lụt từ 7/10 đến 25/10 vùng Bình Chánh, Củ Chi,
Hóc Môn, Quận 2, 9, 12, Bình Thạnh, Gò Vấp, Thủ Đức và hai nông trường Lê Minh
Xuân và Phạm Văn Hai (5).
2.
Ngập lụt do con người gây ra
2.1. Thiết kế đô thị trên vùng đất nê địa.
Kể từ sau 1975, dân số Sài Gòn gia
tăng nhanh, nhất là dân cư trú lậu không kiểm soát được, nên nhà cửa xây cất
loạn xạ. Theo thống kê chính thức, dân số Sài Gòn năm 1975 là 3.498.120 người,
năm 2010 là 7.391.108 (chưa kể dân cư ở lậu), tức trong vòng 35 năm, dân cư
thành phố tăng 2,1 lần (2)
Thay vì thành phố nên phát triển trên vùng đất cao theo hướng đông và đông –
bắc, thì Sài Gòn lại phát triển theo hướng nam và tây – nam, tức trên vùng đất
thấp, nê địa, ruộng ngập nước, ao rau muống, nơi trước kia xử dụng như là hồ
nước thiên nhiên điều thủy trong mùa mưa của Sài Gòn ngày xưa. Đây là những
vùng có độ cao so với mặt nước biển chỉ từ 0,5 – l,0 m (22).
Chẳng hạn, các khu đô thị phía Nam như Bình Chánh, quận 7, Nhà Bè, khu đô thị
hiện đại tối tân Phú Mỹ Hưng là khu vực trũng, trước đây vốn là hồ chứa nước
thiên nhiên. Toàn khu vực phía nam này là cửa thoát nước chính của Sài Gòn khi
có mưa (3). Nay toàn khu vực được đô thị hóa, kinh rạch bị lấp, không còn đường
thoát nước. Ví dụ điển hình là việc san lấp mặt bằng để làm khu đô thị Phú Mỹ
Hưng đã làm giảm khả năng tích trữ nước của Sài Gòn không dưới 10.000 m3 (2)
Ngày nay, đô thị tiếp tục phát triển theo hướng Nam tức vùng thấp và hướng đông ra vùng biển Cần Giờ (17).
Ngày nay, đô thị tiếp tục phát triển theo hướng Nam tức vùng thấp và hướng đông ra vùng biển Cần Giờ (17).
2.2. Sông rạch ao hồ thoát nước bị lấp.
Sài Gòn trước 1975 có khoảng 700 tuyến
sông, kinh rạch, trong đó nhiều tuyến là đường thoát nước quan trọng khi có
mưa. Kể từ 1975, khoảng 13.000 ha ao hồ, kinh rạch làm nơi chứa nước tại Sài
Gòn đã bị lấp (2). Hồ Bình Tiên rộng 7,4 ha, một trong số những hồ chứa quan
trọng nhất cũng bị san lấp (Tuổi Trẻ ngày 27/05/2010). Chỉ trong khoảng 14 năm
(từ 1990 đến 2004) đã có chừng 47 kinh rạch lớn nhỏ với tổng diện tích hơn 16,4
ha đã hoàn toàn bị san lấp.
Thêm vào đó, hầu hết kinh rạch giữa lòng Saigon như
Tân Hóa, Lò Gốm, Xuyên Tâm, Hàng Bàng, Ba Bò, Ðen bị lấn chiếm, diện tích nhỏ
lại. Nạn xả rác bừa bãi xuống kinh rạch làm tắt dòng chảy, chặn nguồn thoát
nước tự nhiên của kinh rạch (2).
Ngoài ra, sông Sài Gòn cạn vì phù sa bồi, bờ
sông bị lấn chiếm, nên nước sông dâng cao rất nhanh khi có mưa, thủy triều lớn
hay xả lũ các hồ trên thượng nguồn. Hai quận 8 và 6 đang trong tình trạng ngập
nặng vì quá trình đô thị hóa ở Nam Sài Gòn vì các sông rạch thoát nước bị lấp
(3).
Một chuyên gia đưa ra một ước tính rằng khả năng chứa nước tại chỗ trong hệ
thống hồ ao của thành phố giảm 10 lần trong vòng 8 năm (2002-2009) trong lúc
diện tích bê-tông hóa tăng lên 2,5 lần (2).
Trong nghiên cứu cho thành phố Sài Gòn, công ty tư vấn Nikkei Seikkei (Nhật
Bản) đã đề xuất các khu đô thị tại nơi có nền đất cao phải có hồ điều hòa với
dung tích từ 180-200 m3 cho mỗi ha xây dựng, còn đối với khu vực có nền đất
thấp như Nhà Bè, Phú Mỹ Hưng Nikkei Seikkei đề xuất mô hình phát triển theo cụm
và sử dụng công viên có diện tích đáng kể làm vùng đệm chống ngập. Tuy nhiên,
Việt Nam không áp dụng lối quy hoạch này của thế giới mà ngược lại cho lấp toàn
bộ ao hồ thiên nhiên vốn đã có (2).
2.3. Hệ thống thoát nước quá cũ với lưu lượng nhỏ và hư hỏng.
Hiện nay Sài Gòn
vẫn còn sử dụng hệ thống thoát nước của thành phố Sài Gòn trước năm 1975, dài
trên 1 ngàn cây số, chằng chịt khắp nơi như mạng nhện. Hệ thống cũ này trước
kia thiết kế thoát nước với vũ lượng 40 mm/trận mưa. Ngày nay, bị hư hỏng .
Phần cống được xây dựng thêm sau 1975 cũng không có khả năng thoát nước quá 40
mm mưa (22). Chỉ có một số ít cống chính có khả năng thoát nước với vũ lượng 80
mm hay đỉnh triều cường 1,32 m (22), trong lúc trong thực tế một trận mưa trên
60 mm hay 100 mm/ngày mưa vẫn thường xảy ra (12).
2.4- Bê Tông hóa mặt đất.
Thành phố Sài Gòn ngày nay coi như toàn bộ được tráng
nhựa và xi măng, từ đường phố, đường hẻm, sân nhà, ngay cả công viên, v.v. ngăn
chặn nước mưa thấm sâu vào lòng đất. Nước mưa vì vậy chảy tràn đến nơi trũng,
gây ngập lụt.
Trong vòng 17 năm, từ 1989 tới 2006, diện tích mặt đất được bê-tông hóa tăng 4
lần, từ 6.000 ha năm 1990 lên tới 24.500 ha vào năm 2006, thu hẹp diện tích
chứa nước, giảm đáng kể khả năng thấm tự nhiên vào lòng đất, hạ thấp mực nước
ngầm, gây lún trầm trọng và làm thành phố trở ngập lụt dễ dàng (20). Ngoài ra,
việc bê-tông hóa một diện tích lớn làm tăng nhiệt độ bề mặt đô thị, nhiệt độ bề
mặt tối đa tăng từ 39,8 ºC năm 1989 lên 48,4 ºC năm 2006. Đây cũng là nguyên
nhân gia tăng những trận mưa lớn tại Sài Gòn những năm sau này (3, 4, 20).
Trong thời kỳ 1998-2009, Sài Gòn mất đi 50% diện tích cây xanh khiến cho tỷ lệ
cây xanh trên đầu người vô cùng nhỏ, khoảng 0,7 m2 /đầu người vào năm 2009,
trong khi mục tiêu của năm 2010 đề ra trong quy hoạch chung là 6-7 m2/người.
Hình 3.
Diện tích Sài Gòn bị bê tông hóa qua thời gian (2)
|
2.5. Đất
nền lún sụp.
Xây dựng những cao ốc và đô thị hóa trên nền đất không vững của
vùng nê địa, tình trạng khai thác nước ngầm quá mức, nước mưa không thấm được
vào lòng đất vì bê tông hóa, đã tạo ra hiện tượng bề mặt Sài gòn bị lún sụp,
khoảng 15 mm/năm (2, 22).
2.6. Hệ thống đê bao chống ngập lụt không hữu hiệu:
Ngày 26/11/2007, 40 điểm vỡ
đê ở thành phố Saigòn, riêng phường An Phú Đông, quận 12, có 22 điểm bể và tràn
bờ nhiều nơi, có nơi ngập trên 1m. Nước sông Sài Gòn ào ạt chảy vào khu dân
cư, nhanh chóng dâng lên ngập cả thước. Nhiều hẽm có đoạn ngập đến 1,8 m (21).
Hình 4.
Cảnh ngập lụt tại Sài Gòn ngày 26/11/2007
Ngày
8/11/2010, triều cường kết hợp với mưa lớn gây nhiều đoạn bờ bao xung yếu tại
quận Thủ Đức, quận 12 đã bị vỡ. Hàng trăm gia cư thuộc khu phố 7, khu phố 8
(phường Hiệp Bình Chánh) và khu phố 2 (phường Tam Phú) quận Thủ Đức vẫn chìm
sâu trong nước do bể bờ bao. Các tuyến đường trong nội thành như đường Nguyễn
Hữu Cảnh, Ngô Tất Tố, Bùi Hữu Nghĩa, Xô Viết Nghệ Tĩnh (quận Bình Thạnh), Phạm
Thế Hiển, Lưu Hữu Phước (quận 8), bị ngập sâu 0,3 m – 0,5 m.
Nước sông Sài gòn bất ngờ tràn ngập đường số 7 thuộc khu phố 5 (P. Hiệp Bình
Phước, Q.Thủ Đức) vào rạng sáng ngày 28/9 nước dâng cao lên đến 1m và sau đó
rút rất chậm theo con nước ròng. Nguyên nhân được xác định là một đoạn bờ bao
tại rạch Ụ Lò bị san thấp trong quá trình thi công chưa kịp tái tạo (11).
2.7. Ngập lụt do xả lũ:
Hạ nguồn sông Sài Gòn chịu ảnh hưởng bán nhật triều của
Biển Đông, nên khi có triều cường thì ngập lụt. Ngược lại, phía thượng nguồn,
dầu đất cao hơn, nhưng một khi xả lũ của các hồ Dầu Tiếng, Trị An, Thác Mơ thì
gây ngập lụt cho Sài Gòn (6, 7). Chỉ cần một ngày mưa 500 mm, bắt buộc phải xã
lũ cùng lúc ở các hồ này (16), và như vậy phần lớn diện tích của các quận 2, 7,
8, 9, huyện Nhà Bè, v.v. sẽ chìm sâu trong nước (4).
Hồ Dầu Tiếng nằm ở thượng nguồn sông Sài Gòn, cách trung tâm Sài Gòn khoảng 70
km theo đường thẳng, có dung tích gần 1,6 tỉ m3, đập chính dài 1,1 km, đập phụ
dài 27 km (16).
Trong trận lũ lịch sử lớn nhất khu vực Đông Nam Bộ năm 1952, lượng nước đo được tại vị trí Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn là 1.400 m3/giây. Những nghiên cứu sau này cho thấy tần suất xảy ra trận lũ như vậy là 100 năm một lần. Theo qui định, trước ngày 1/11 hàng năm hồ Dầu Tiếng không được tích nước quá cao trình 23,1 m, sau ngày 10/11 mới được phép nâng lên 24,4 m, nếu có lũ về thì nâng lên 25,1 m và lưu lượng xả lũ đạt mức cao nhất 2.800 m3/giây (16).
Theo nghiên cứu của Hội Khoa học Thủy lợi TP Sài Gòn, qua 26 năm khai thác hồ
Dầu Tiếng, lưu lượng xả lũ bất thường do cửa van hỏng năm 1986 là 580 m3/giây
đã gây ngập lụt khá nặng cho vùng hạ du, đặc biệt là Sài Gòn, năm 2008 cũng xả
600 m3/giây đã gây ngập cho nội thành Sài Gòn (16).
Vì vậy, nếu tất cả Hồ Trị An, Dầu Tiếng, Thác Mơ, Phước Hòa xả lũ cùng lúc với
khoảng 5% lưu lượng theo như quy định hiện hành (từ 20.000 – 30.000 m3/giây)
thì Sài Gòn chắc chắn sẽ phải chịu ngập lụt và thiệt hại rất nghiêm trọng (25).
2.8. Đổ thừa cho hiện tượng Hâm nóng toàn cầu.
Các cơ sở phụ trách chống ngập
lụt ở Sài Gòn giải thích về việc Sài Gòn càng ngày càng thêm ngập lụt là một
phần do nước biển dâng cao bởi hiện tượng Hâm nóng toàn cầu. Sự thật thì hiện
tượng này không có liên hệ gì với sự trầm trọng ngập lụt ở Sài Gòn, vì mực nước
biển tại Vũng Tàu không có biến đổi gì nhiều trong vòng 20 năm qua (2, 3, 26).
Ngược lại, mực nước tại trạm Phú An và Nhà Bè gia tăng đáng kể, với tốc độ lần
lượt là 1,45 cm/năm và 1,17 cm/năm (2, 3), và sự kiện này có tương quan thuận
giữa lưu lượng xả tối đa của trạm thủy điện Trị An với mức nước cao nhất hàng
năm tại Biên Hòa, Phú An và Thủ Dầu Một (2, 26).
Hình 5.
Biểu đồ mực nước cao nhất tại trạm Vũng Tàu (VT), Nhà Bè (NB) và Phú An (PA)
(2)
Hình 6.
Tần số mực nước cao tại Phú An vượt 1,2 m, 1,3 m, 1,4 m và 1,45 m
Theo Hình
6, từ những năm 1990, số lần mực nước đạt các mức cao nhất hàng năm tại trạm
Phú An tăng lên nhanh chóng. Nếu trong năm 1995, số lần mực nước vượt mức 1,2 m
là khoảng 30 lần thì con số này vào năm 2007 là 100 lần (2).
2.9. Quản lý kém:
Từ những nguyên nhân do con người gây ra lụt lội ở thành phố
Sải Gòn kể trên, nguyên nhân chính là do quản lý yếu kém, thiếu viễn kiến, phản
khoa học và con người thiếu thật tâm (4).
Một trong các quản lý kém là các dự án thi công không đồng bộ, chồng chéo lên
nhau, và không cơ quan nào chịu trách nhiệm thất bại về phần mình. Trong cơn
mưa rạng sáng ngày 19/4/2011, toàn thành phố có tới 41 tuyến đường bị ngập sâu
với độ sâu trung bình 0,3 m. Trong tổng số 41 tuyến đường bị ngập kể trên có
đến hơn một nửa là do việc thi công các công trình thoát nước làm tắc nghẽn
dòng chảy (9). Hiện tại (4/2011) toàn thành phố đã xuất hiện tới 64 vị trí thi
công dự án làm ảnh hưởng đến hệ thống thoát nước, trong tổng số 64 vị trí trên,
nhiều nhất là của dự án vệ sinh môi trường thành phố (lưu vực Nhiêu Lộc – Thị
Nghè) với 25 vị trí; kế đến là dự án nâng cấp đô thị với 21 vị trí (9). Không
biết thực tế đến bao giờ các dự án đó chấm dứt.
II.
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ SÀI GÒN TRƯỚC 1975
Trước 1975, có 3 dự án quan trọng phát triển thành phố Sài Gòn.
Cả 3 dự án này
có những điểm chung:
(i) đều quy hoạch phát triển thành phố trên vùng đất cao,
dọc bờ sông, và theo hướng bắc và đông bắc;
(ii) tạo nhiều ao hồ ở vùng trũng
để điều tiết lượng nước mưa tránh ngập lụt cho thành phố;
(iii) nhiều sông rạch
và hệ thống hầm cống thoát nước chảy tự nhiên theo độ dốc.
Đồ án quy hoạch đầu tiên do đại tá công binh Coffyn đệ trình lên thống đốc
Bonard năm 1862, theo đó Sài Gòn được thiết lập trên bờ sông có địa hình cao,
với diện tích 2.500 ha cho dân số 500.000 người. Để thoát nước tự nhiên theo
triền dốc, thiết lập hồ nhân tạo điều hòa nước mưa hay thủy triều đào ở vùng
trũng. Hồ này có một số cửa được mở ra để nhận nước sạch từ sông và kinh rạch
chảy vào khi nước thủy triều lên, và bằng cách này nó sẽ tống nước dơ ra kinh
rạch bằng một hệ thống các ống dẫn ra kinh Bến Nghé, Thị Nghè và sông Sài Gòn
khi nước triều xuống. Cứ hai lần một tuần nước chảy vào và xả ra sẽ làm sạch hệ
thống nước thải của thành phố (14).
Năm 1943, kỹ sư Pugnaire cùng với kiến trúc sư Cerutti, công bố kế hoạch chỉnh
trang Sài Gòn – Chợ Lớn và phát triển thành phố đến tận năm 2000 với dân số dự
kiến tăng trên 1 triệu vào năm 2000. Trong kế hoạch này hai ông đưa ra đề xuất
là phải đào một cái hồ ở phía tây đường Lê Văn Duyệt (Đinh Tiên Hoàng ngày
nay), một mặt lấy đất tôn cao nền để xây dựng nhà cửa và điều quan trọng là để
chứa nước mưa. Quanh hồ nhân tạo lớn này sẽ thiết lập một khu triển lãm, vận
động trường thể thao, những câu lạc bộ thể dục và bơi lội, cùng các cơ quan
hành chính của tỉnh Gia Định. Một hệ thống thoát nước dựa vào chính dòng chảy
tự nhiên bằng một hệ thống kinh mương nối nhau chảy thoát ra sông. Dự án chưa
được thực hiện vì chiến tranh (14).
Trong thời Việt Nam Cộng Hòa, nhóm kiến trúc sư do ông Lê Văn Lắm lãnh đạo, gồm
quý ông như KTS Ngô Viết Thụ, KS Trần Lê Quang, v.v. đã công bố “Dự án thiết kế
thủ đô Sài Gòn”. Dự án nghiên cứu rất chi tiết, từ lịch sử, địa lý đến điều
kiện xã hội học, qui hoạch, thiết kế công trình đến kế hoạch trù liệu tài
chính.
Theo dự án này, thành phố chỉ nên phát triển và mở rộng trên vùng đất cao, theo
trục xa lộ Biên Hòa, hướng về phía bắc và đông bắc (Thuận An, Biên Hòa) và Tây
Bắc (Củ Chi). Thiết lập một đô thị Sài Gòn mới song hành với Sài Gòn cũ. Các cơ
sở kỹ nghệ, và đại học phải dời ra khỏi Sài Gòn cũ, để dân chúng tự động đến
định cư ở thành phố mới.
Dự án còn khuyến cáo là bất luận trong trường hợp nào thành phố cũng không được
phát triển kỹ nghệ và đô thị hóa về hướng nam và đông nam thành phố như Nhà Bè,
Cần Giờ, và Bình Chánh, vì đó là khu vực trũng, xử dụng như hồ nước điều thủy
khi có mưa to. Nếu có xây cất thì chỉ cho phép nhà thấp tầng, nhà vườn, và duy
trì hình thái nông nghiệp sinh thái, không được bêtông hóa toàn bộ bề mặt để
cho nước ngấm (14).
Dự án chỉ thực hiện được vài năm, như thiết lập khu kỹ nghệ dọc Xa lộ cho tới
Biên Hòa, thành lập làng Đại Học, khu Đại Học Thủ Đức, v.v. thì biến cố 4/1975
xảy ra.
III.
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN TP SÀI GÒN NGÀY NAY
Hiện nay Sài Gòn được phát triển theo hướng nam (Bình Chánh, Phú Mỹ Hưng) và hướng đông (hướng Cần Giờ) là vùng đất nê địa.
Ở Khu đô thị mới Nam Sài Gòn công ty tư vấn Skidmore, Owings & Merrill –
SOM (Mỹ) đã quy hoạch theo mô hình “đô thị đảo” (City of Island) kết hợp phát
triển các đô thị với các kinh rạch bao quanh vừa bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên
vừa thoát nước dễ dàng, nhưng rất tiếc là ý tưởng này không được thực hiện đầy
đủ trong thực tế (25).
Phát triển thành phố ra biển Đông, biến “Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông” của thời
xa xưa thành “Rotterdam của Đông Nam Á”, theo như quy hoạch TP Sài Gòn đến năm
2025 đã được Chính phủ phê duyệt. Ông Arnoud Molenaar, Giám đốc phụ trách ứng
phó biến đổi khí hậu của thành phố Rotterdam khi thăm viếng Sài Gòn tuyên bố:
“Tiến ra biển, TP HCM nên biến nguy cơ (ngập lụt) thành cơ hội cho mình”. Lấy
thành phố cảng Rotterdam làm kiểu mẫu mô hình phát triển cho Sài Gòn, ông
Molenaar nói tiếp “Đất nước nằm thấp hơn mực nước biển này đã phát triển ra
biển qua nhiều thập kỷ và trở thành cảng biển lớn nhất Châu Âu khi có những
điều kiện tốt về hàng hải”.
Đồng tình với quan điểm này, Ông Phó chủ tịch UBND khẳng định thành phố không thể không phát triển kinh tế biển để tận dụng chiều dài hàng trăm km dọc sông, thích hợp phát triển cảng (17). Quy hoạch TP Sài Gòn đến năm 2025 chuyển thành thành phố kinh tế cảng biển đã được Chính phủ phê duyệt.
IV.
CÁC DỰ ÁN CHỐNG NGẬP LỤT NGÀY NAY
1. Công trình chống ngập lụt cho thành phố Sài Gòn Để chống ngập lụt cho TP Sài Gòn, chia 3 vùng thủy lợi (25): – Vùng I: Gồm toàn bộ khu vực bờ hữu sông Sài Gòn – Nhà Bè – Vùng II: Khu vực ngã 3 sông Sài Gòn – Đồng Nai – Vùng III: Khu vực bờ tả sông Nhà Bè – Soài Rạp
Dự án tập trung vào vùng I, là vùng khống chế khu vực nội thành Sài Gòn, với
nhiều nhiệm vụ về tiêu thoát nước đô thị, môi trường và cải tạo đất. Để giải
quyết, xây dựng một hệ thống công trình khép kín bao gồm 13 cống kiểm soát
triều và 172 km đê bao kết hợp với các tuyến giao thông, cao trình đê tối thiểu
2,5 m.
Sau khi hoàn thành hệ thống khép kín, bảo đảm kiểm soát mực nước kinh rạch
trong khu vực, trong đó có thể hạ thấp mực nước trong kinh rạch theo yêu cầu để
tăng cường khả năng thoát nước của hệ thống thoát nước của đô thị cũ, biến dòng
chảy 2 chiều thành dòng chảy một chiều, tạo điều kiện tốt cho việc thoát lũ,
ngăn chặn ảnh hưởng của hiện tượng mực nước biển dâng (25).
Theo báo cáo thực trạng và giải pháp thoát nước của Sở Giao Thông Công Chánh
Sài Gòn tháng l0/2003, các biện pháp xử lý đã triển khai cho vùng trung tâm
thành phố nơi có tới 85% tổng số điểm ngập gồm các biện pháp chính như sau
(22):
(i) Đối với vùng ngập do triều và mưa: tiến hành san lấp, nâng cao mặt đất,
nâng cao mặt đường, như đã san lấp ở khu đô thị mới quận 7, hay tôn cao mặt
đường đường Xô Viết Nghệ Tĩnh và đường Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh.
(ii) Đối với vùng ngập do mưa: làm thêm các đường cống nối từ đường này với
đường khác; tạo hệ thống cống lấy và dẫn nước hoặc dùng máy bơm để bơm lượng
nước ngập sang nơi khác.
(iii) Tiến hành nạo vét một số kinh rạch, nạo vét ống cống, hố ga định kỳ nhằm
tăng lượng nước tiêu thoát.
(iv) Triển khai các dự án (vốn ODA hay vốn trong nước) như dự án vệ sinh môi
trường (lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè), dự án cải thiện môi trường nước (tiểu dự
án cải tạo HTTN rạch Hàng Bàng), dự án cải thiện môi trường nước (lưu vực Tàu
Hủ – Bến Nghé – Đôi – Tẻ), dự án cải thiện vệ sinh và nâng cấp đô thị lưu vực
Tân Hóa – Lò Gốm.
Theo Trung Tâm Điều Hành Chương trình chống Ngập Nước hiện có 2 quy hoạch tổng
thể liên quan tới công trình thoát nước và thủy lợi (7). Đó là: (i) Quy hoạch
Quản lý Công Trình Thủy Lợi để quàn lý tình trạng ngập lụt ở Sài Gòn do Bộ Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn (NN&PTNT) xây dựng (phê chuẩn năm 2008), và
(ii) Quy hoạch tổng thể về tiêu thoát nước của thành phố Sài Gòn.
1.1. Quy hoạch Quản lý Công Trình Thủy Lợi được chính phủ phê duyệt đề xuất xây
dựng một hệ thống đê bao dọc theo bờ Tây sông Sài Gòn với tổng chi phí lên tới
11.000 tỷ đồng để triệt tiêu ảnh hưởng của thủy triều đối với thành phố (2).
Quy hoạch gồm: -Xây dựng đê bao dọc bờ phải sông Sài Gòn có chiều dài tổng cộng 172 km. -Xây dựng đê bao dọc sông Đồng Nai ở quận 9 chiều dài tổng cộng 13,5 km. -Xây dựng 13 cống điều tiết dọc theo sông Sải Gòn. -Nạo vét 30 con sông và kinh hiện hửu có chiều dài tổng cộng 219 km. Hệ thống đê sông khi hoàn chỉnh (dự trù 2010) gồm đê cao từ 2m đến 2,7 m. Đoạn Bến Súc – tỉnh lộ 8 cao 2,5-2,7 m; đoạn Quốc lộ 8 – Rạch Tra cao 2,2 m,; đoạn Rạch Tra – Vàm Thuật cao 2,0 m; lưu vực Thanh Đa, quận 2 và 9 cao 2,2-2,5 m. Tuy nhiên, theo các mô hình toán học, nếu một trong các hồ tháo lũ thì các đê này ngăn chận được lũ, nhưng nếu cả 3 hồ xả lũ cùng lúc, cộng với mưa và triều cường thì hệ thống đê hoàn chỉnh này không thể chống cự được lũ tràn qua sông gây ngập lụt lớn ở nội thành Sài Gòn (5).
1.2. Quy hoạch tổng thể về tiêu thoát nước TP Sài Gòn đến năm 2020 được Chính
phủ phê duyệt năm 2001. Dự án nhằm cải tạo, xây dựng hệ thống nước mưa kết hợp
cải tạo kinh rạch hồ chứa hiện có, cải tạo, nâng cao khả năng tiêu thoát nước
của kinh rạch.
Quy hoạch gồm: – Dự án Vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc Thị Nghè, nạo vét mở rộng kinh kết hợp xây dựng bờ kè, xử lý nước thải trước khi đổ ra kinh. Dự án nâng cấp đô thị thành phố lưu vực kinh Tân Hóa – Lò Gốm giải quyết ô nhiễm, thoát nước của kinh này. – Dự án cải thiện môi trường khu vực kinh Tàu Hủ – Bến Nghé – Kinh Đôi – Kinh Tẻ, rạch Hàng Bàng nhằm cải thiện điều kiện thoát nước khu vực này. Dự án quy hoạch chống ngập úng cho thành phố được Chính phủ phê duyệt tháng 10/2008, thực hiện các giải pháp cơ bản vấn đề ngập do triều, lũ lớn, mưa to bằng cách xây dựng hệ thống đê bao và cống kiểm soát mực nước (3).
2. Các biện pháp sửa chữa cục bộ
Các biện pháp toàn diện nói trên cho tới nay không phát huy kết quả. Ngập lụt càng gia tăng. Vì vậy, địa phương có các biện pháp khác đối phó.
2.1. Nâng cao mặt đường:
Nhiều con đường trước đây bị ngập nặng, nay chính
quyền nâng mặt đường cao hơn để đường không bị ngập, nhưng lại gây ngập cho nhà
dân trong khu vực, và ngập lụt ở các đường khác chưa nâng cao. Để đối phó, dân
nâng cao nền nhà. Chẳng hạn, đường Nguyễn Thị Thập ở quận 7 trước đây bị ngập
rất nặng sau mỗi cơn mưa lớn. Nước ngập lút bánh xe khiến người dân khốn đốn
trong sinh hoạt và di chuyển. Cách đây một năm, con đường được nâng cao, khang
trang và không bị ngập khi mưa. Thế nhưng người dân lại lâm vào một cảnh khổ
khác, vì nhà nào cũng thấp hơn mặt đường ít nhất là 0,5 m. Sau những trận mưa
thì nước ào ào tràn vào nhà. Để đối phó thì nhà nhà chạy đua để nâng nền lên
cho bằng với độ cao của con đường (8).
2.2. Đào ao hồ điều thủy.
Nay nhận biết sự quan trọng của ao hồ thiên nhiên
trong việc điều thủy, Sài Gòn đang tiến hành xây dựng lại hồ ao nhân tạo mà họ
đã lấp trước đây. Chẳng hạn, hồ điều tiết Mễ Cốc ở phường 15, quận 8 được khởi
công vào năm 2011 (19). Ngoài dự án hồ điều tiết Mễ Cốc, hiện thành phố còn xử
dụng các hồ như Hồ Kỳ Hoà; hồ trong các công viên Hoàng Văn Thụ, Hoà Bình để
làm hồ điều tiết. Hiện tại, hồ Kỳ Hoà đang gánh bớt một phần lượng nước ở các
tuyến đường Lê Hồng Phong, đường Ba Tháng Hai và các đường lân cận bằng hệ
thống ống dẫn vào hồ (19). Hồ Kỳ Hòa trước 1975 đã được thiết kế là một trong
những hồ điều tiết của Sài Gòn (19).
Hình 7. Hồ
nước trong công viên Hoàng Văn Thụ, Q. Tân Bình
2.3. Học
bơi lội. Ngày 3/7/2009, dân Sài Gòn có dịp cười hê hã với quyết định mới ban
hành của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Sài gòn là vận động dân chúng học bơi
và phải hỗ trợ họ nâng cao kỹ năng bơi lội (4).
3. Dự án
đê biển Vũng Tàu- Gò Công.
Dự án nhằm chống lũ lụt, ngập úng và xâm nhập mặn
cho toàn vùng Sài Gòn và vùng Đồng Tháp Mười (24).
Kinh phí ước tính để thực hiện khoảng 30 ngàn tỉ đồng. Trong đó, nhà nước hỗ trợ 10-15% kinh phí, còn lại là kêu gọi đầu tư, xã hội hóa. Dự án đê biển bao gồm một tuyến đê dài 32 km, xuất phát từ Vũng Tàu (mũi Ô Cấp, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) đến Gò Công (tỉnh Tiền Giang). Chiều sâu nước trung bình là 6 m, nơi sâu nhất là 12 m. Mặt đê rộng 50 m. Bên cạnh đó, công trình còn có một cống kiểm soát triều, thoát lũ và các âu thuyền phục vụ giao thông thủy. Nếu được xây dựng, đê sẽ tạo được một hồ chứa với diện tích mặt nước 56.000 ha. Dung tích hồ chứa khoảng 3,3 tỉ m3 (24). Dự án còn trong tình trạng ý tưởng, và tham khảo dư luận, nhưng đã gặp nhiều tranh cãi không thuận lợi (28, 29).
KẾT
LUẬN
Cho tới nay giải pháp chống ngập lụt ở Sài Gòn vẫn chủ yếu dựa vào việc xây dựng đê bao như đề xuất trong Quy hoạch thủy lợi chống ngập mới đây của thành phố với tổng chi phí lên tới 11.000 tỉ đồng. Sau 10 năm tốn hơn 1 tỉ đô-la vào các dự án thoát nước, vấn đề ngập lụt vẫn chưa được giải quyết, ngược lại có phần trầm trọng hơn (18, 20). Xóa được ngập lụt ở nơi này, thì tạo ngập lụt ở nơi khác. Đến đầu năm 2006, toàn TP Sài Gòn có 105 điểm ngập. Trong ba năm tiếp theo (2006-2008), TP xóa được 57 điểm ngập thì lại phát sinh đến 78 điểm ngập mới khiến tổng số điểm ngập đến đầu năm 2009 nâng lên 126. Trong năm 2009, TP tiếp tục xóa được 30 điểm ngập, nhưng qua năm 2010, 32 điểm ngập mới xuất hiện (22). Vì vậy, theo các chuyên viên, dù các dự án chống ngập lụt hiện hữu hoàn thành thì cũng chỉ có thể giảm được 50 % số điểm thường xuyên bị ngập ở nội thành mà thôi (3, 4). TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Nguyễn Đỗ Dũng (2011). Ngập lụt tại TP Hồ Chí Minh: đi tìm căn nguyên.
(28/2/2011) http://dungdothi.wordpress.com/2011/02/28/ngapluthcmc/
3. Kiên cường (28/5/2010). TP HCM thành biển nước do sai lầm trong quy hoạch’ http://boxitvn.wordpress.com/2010/05/28/tp-hcm-thnh-bi%e1%bb%83n-n%c6%b0%e1%bb%9bc-do-sai-l%e1%ba%a7m-trong-quy-ho%e1%ba%a1ch/
4. Trần Văn (3/7/2009) . Dự án chống ngập lụt của Sài Gòn có phần “học bơi”? http://vietsn.com/forum/showthread.php?t=162276
5. Nguyễn Thanh Phong. Nghiên cứu ngập lụt vùng ven sông Sài gòn Đồng nai.
thành phố Hồ chí Minh do chế độ xả lũ các hồ Dầu Tiếng, Trị an, Thác mơ . http://www.nsl.hcmus.edu.vn/greenstone/collect/hnkhbk/archives/HASH1e78.dir/doc.pdf
6. Trung tâm chống ngập nước TP HCM. Thực trạng và giải pháp chống ngập đô thị
ở thành phố Hồ Chí Minh.
7. Hội thảo về cuộc sống đô thị C40. Sự ứng phó về nước và khí hậu cho thành
phố HCM (12/5/2010).
8. Những ngôi nhà biến thành hang động ở Sài Gòn (16.10.2011). http://radiodlsn.blogspot.com/2011/10/nhung-ngoi-nha-bien-thanh-hang-ong-o.html
9. Sài Gòn ngập lụt vì dự án môi trường. http://vtc.vn/2-284003/xa-hoi/sai-gon-ngap-nuoc-vi-du-an-moi-truong.html
10. Tình trạng ngập lụt ở Sài Gòn sẽ còn tiếp tục đến năm 2020 (2/11/2004). http://www.rfa.org/vietnamese/vietnam/ngaplut-20041102.html
11. Thi công bỏ dở, hàng trăm hộ ngập lụt. 28/9/2011. http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/41282/thi-cong-bo-do–hang-tram-ho-ngap-lut.html
12. QĐND. 4/10/2011. Chống ngập để phát triển bền vững ở TP Hồ Chí Minh, cần
giải pháp đồng bộ và nguồn vốn . http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/162600/print/Default.aspx
13. Thực trạng và giải pháp chống ngập đô thị ở thành phố HCM. http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/…/TTchongngap…
14. Nguyễn Minh Hòa (2006). Ngập lụt đô thị: những lời giải xưa. http://vietbao.vn/Xa-hoi/Ngap-lut-do-thi-nhung-loi-giai-xua/40134064/158/
15. Hội thảo Thực trạng và giải pháp giải quyết tình trạng ngập nước ở tp. Hồ
chí Minh (26/12/2007). http://www.siwrr.org.vn/?id=diendan
16. Lên phương án ứng phó vỡ đập hồ Dầu Tiếng (14/10/2011). http://www.biethet.com/n789179-len-phuong-an-ung-pho-vo-dap-ho-dau-tieng
17. Muốn tiến ra biển, TP HCM phải chấp nhận ngập nặng. http://land.cafef.vn/2010061511515499CA35/muon-tien-ra-bien-tp-hcm-phai-chap-nhan-ngap-nang.chn
18. Chống ngập để phát triển bền vững. http://kienviet.net/bai-viet/chi-tiet/ngap-lut-tai-thanh-pho-ho-chi-minh-thien-tai-hay-nhan-tai
19. TP. Hồ Chí Minh: Đào hồ điều tiết chống ngập (18/11/2010). http://kienviet.net/bai-viet/chi-tiet/lam-gi-truoc-khi-song-nhue-vo-phuong-cuu-chua
20. Chống ngập lụt tại Tp. HCM: Không thể chỉ trông chờ vào đê bao
(30/11/2010). http://kienviet.net/bai-viet/chi-tiet/chong-ngap-lut-tai-tp-hcm-khong-the-chi-trong-cho-vao-de-bao
21. 40 đoạn đê bao quanh thành phố bị vỡ, Saigòn bị trận ngập lụt lịch sử! Đồng
Nhân 11/27/2007.
22. Lê Huy Ba (29/7/2006). Giải pháp gốc chống ngập lụt ở thành phố HCM. http://vietbao.vn/Xa-hoi/Giai-phap-goc-chong-ngap-lut-o-TP-HCM/40152884/157/
23. Bao giờ sài gòn hết ngập? – Bài 1: 10 năm vã mồ hôi chống ngập. http://phapluattp.vn/20110704110237340p0c1085/10-nam-va-mo-hoi-chong-ngap.htm
25. Nguyễn Đăng Sơn (20/8/2011) Giải pháp tổng thể chống ngập ở Tp. HCM. http://trelangkienviet.com/2011/08/20/gi%E1%BA%A3i-phap-t%E1%BB%95ng-th%E1%BB%83-ch%E1%BB%91ng-ng%E1%BA%ADp-%E1%BB%9F-tp-hcm/
26. Hồ Long Phi (2007). Chiến lược tích hợp quản lý ngập lụt để thích ứng với
biến đổi ở thành phố Hồ Chí Minh. Proceedings: Conference on climate change and
sustainable urban development in Viet Nam. Trang 278-287.
27. Hội Thảo về cuộc sống đô thị C40 (7/2010). Sự ứng phó về nước và khí hậu
cho thành phố HCM.
28. Nguyễn Minh Quang (2011). Nhận xét về dự án đê biển Vũng Tàu – Gò Công. http://trunghoctanan.net/index.php?option=com_content&view=article&id=541:541&catid=4:stchs&Itemid=22
29. Hoàng Xuân Nhuận (16/3/2011). Nhận xét độc lập của chuyên gia về dự án
tuyến đê biển Vũng tàu – Gò công. http://kinhtebien.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=346:nhn-xet-c-lp-ca-chuyen-gia-v-d-an-tuyn-e-bin-vng-tau-go-cong-pgs-ts-hoang-xuan-nhun-hi-cng-ng-thu-va-thm-lc-a-vn-&catid=76:him-ha-nc-dang&Itemid=50
Reading,
11/2011
Trần Đăng Hồng |
No comments:
Post a Comment