Water level
on Monday, January 23, 2017 at 07:00 AM = 5.01 m
Minimum level = 2.53 m
All levels are above zero gauge
(Zero gauge Luang Prabang = 267.195 m above MSL)
Savannakhet
Water level
on Monday, January 23, 2017 at 07:00 AM = 2.00 m
Minimum level = -0.65 m
All levels are above zero gauge
(Zero gauge Savannakhet = 125.022 m above MSL)
Pakse
Water level
on Monday, January 23, 2017 at 07:00 AM = 1.70 m
Minimum level = 0.03 m
All levels are above zero gauge
(Zero gauge Pakse = 86.49 m above MSL)
Phnom Penh (Bassac)
Water level
on Monday, January 23, 2017 at 07:00 AM = 3.15 m
Minimum level = 1.58 m
All levels are above zero gauge
(Zero gauge Phnom Penh (Bassac) = -1.02 m above MSL)
Prek Kdam (Tonle Sap)
Water level
on Monday, January 23, 2017 at 07:00 AM = 2.33 m
Minimum level = 0.58 m
All levels are above zero gauge
(Zero gauge Prek Kdam (Tonle Sap) = 0.08 m above MSL)
Tan Chau
Water level
on Monday, January 23, 2017 at 07:00 AM = 1.17 m
Minimum level = -0.37 m
All levels are above zero gauge
(Zero gauge Tan Chau = 0.001 m above MSL)
Chau Doc (Bassac)
Water level
on Monday, January 23, 2017 at 07:00 AM = 1.25 m
Minimum level = -0.6 m
All levels are above zero gauge
(Zero gauge Chau Doc (Bassac) = 0.001 m above MSL)
Ảnh hưởng của nạn phá
rừng đối với lũ lụt đã và đang được tranh luận trên khắp thế giới. Theo Cơ quan
Lương Nông của Liên Hiêp Quốc (FAO), mức độ phá rừng cao nhất xảy ra ở Á Châu,
từ 9.5% trong thập niên 1960 đến 11% trong thập niên 1980.
Cũng như nhiều nơi khác
trong nước, rừng ở các tỉnh miền Trung đang bị tàn phá một cách nghiêm trọng.
Hiện nay diện tích rừng chỉ còn khoảng 40%. Các cuộc nghiên cứu và
điều tra ở Hoa Kỳ cũng như nhiều nơi khác trên thế giới đã chứng minh rằng
nguyên nhân hàng đầu của lũ lụt là có quá nhiều mưa xảy ra trong một thời gian
ngắn và việc phá rừng có thể ảnh hưởng quan trọng đối với lũ lụt trong
các lưu vực hạn hẹp như ở miền Trung. Cây cối có khả năng giữ nước cũng như
giảm thiểu việc đất đai sụt lở. Lượng nước lũ ở một vùng có nhiều cây cối sẽ ít
hơn lượng nước lũ từ một vùng trơ trọi. Vì thế nạn phá rừng có thể gia tăng mực
nước ở các vùng hạ lưu.
Phát biểu của Tiến sĩ Nguyễn Huy Dũng-Phó Viện trưởng Viện Điều tra và Quy hoạch
rừng: “Giữ được rừng thì mới giữ được nước”
Trong thời gian gần đây, rừng Tây Nguyên suy giảm về diện tích và chất lượng, rừng
còn lại thì nghèo kiệt. Điều này ảnh hưởng đến việc tạo ra nguồn sinh thủy cho
các hệ thống hồ đập, sông suối trên toàn vùng Tây Nguyên. Diện tích rừng giảm
làm cho khả năng tạo mưa của rừng cũng giảm. Theo tính toán của các nhà khoa học
khi gia tăng 10% độ che phủ của rừng thì lượng mưa sẽ tăng 2,5%. Do rừng mất
nên toàn bộ hệ thống sông suối ở Tây Nguyên hứng chịu nhiều đợt lũ lụt vì rừng
không giữ được nước.
Ngoài ra, dòng chảy bề mặt ở rừng không lớn hơn 2% so với tổng lượng mưa, nhưng
khi rừng bị phá hủy, dòng chảy bề mặt tăng lên rất lớn, có thể lên đến 30%. Lượng
nước ngầm cũng giảm đáng kể vì nước giữ ở tán cây, thân cây, thảm thực vật
trong đất giảm. Hiện nay, các tỉnh Tây nguyên cũng đang tích cực trồng rừng,
tuy nhiên rừng trồng với các loài cây mọc nhanh, đơn loài, đơn tầng thì không
có khả năng giữ nước. Do vậy cần bảo vệ hệ thống rừng tự nhiên còn lại, tăng cường
trồng rừng nguyên liệu, rừng gỗ lớn; giao đất giao rừng cho người dân và cộng đồng
quản lý, bảo vệ. Bởi có giữ được rừng thì mới giữ được nước.
Việt Nam và lũ lụt
Tại Việt Nam năm nào cũng có lụt, không lụt lớn cũng có lụt nhỏ. Chẳng hạn
ở Miền Trung bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12 DL đều có lụt vì là mùa mưa lũ.
Dãy Trường Sơn chận mây tạo mưa ở sườn đông, đồng bằng lại nhỏ hẹp nên không
tránh được lũ lụt. Tại đồng bằng Cửu Long, hàng năm đều có ngập lụt định kỳ.
Tại đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, có những trận bão lụt thảm khốc trong
thế kỹ 19 và 20 là năm
- Canh Dần (1890), Quý Tị
(1893),
- Ất Tị (1905),- Quý Sửu (9/8/1913),
-Ất Mão (11-20/8/1915),
- Bính Dần (29/7/1926),
- Ất Dậu (8/1945),
-Tân Hợi (20/8/1971),
- Bính Tý (1996, do bão Frankie),
- Nhâm Ngọ (9/2002, bảo Mekkhala
),
và Mậu Tý (10/2008).
Tại Miền Trung, trung bình hàng năm có 5 trận bão, những trận bão lụt gây
thiệt hại nổi tiếng là:
- Quý Tỵ (1953),
- Giáp Thìn (1964),
- Bính Tý (1996),
- Mậu Dần (1998),
- Hai trận lụt năm Kỹ Mão
(tháng 11 và 12/1999),
- Canh Thìn (9/2000, do
bảo Wukong vào Hà Tĩnh),
- Quý Mùi (11/2003),
và trận bão năm Ất Dậu (4/2005).
Tại Miền Nam và đồng bằng Cửu Long, những trận lụt lớn xảy ra năm:
- Giáp Thìn (1/5/1904),
- Giáp Tý (1924), Mậu Thìn
(1928),
- Nhâm Thìn (1952), Tân
Sửu (1961),
- Giáp Thìn (1964), Bính
Ngọ (1966),
- Mậu Ngọ (1978), Giáp Tý
(1984),
-Tân Mùi (1991), Giáp
Tuất (1994),
- Ất Hợi (1995),
- Bính Tý (1996),
- Đinh Sửu (1997, bão Linda tàn phá vùng
bán đảo Cà Mau),
- Canh Thìn (2000),
- Tân Tỵ (10/2001),
- Nhâm Ngọ (9/2002),
- Giáp Thân (2004),
và Tân Mão (2011).
Trung bình ở đồng bằng Cửu Long, mỗi 5 đến 12 năm là có một trận lụt khủng
khiếp:
- 1961 (Tân Sửu),
- 1966 (Bính Ngọ),
- 1978 (Mậu Ngọ),
- 1984 (Giáp Tý)
và 1991 (Tân Mùi).
Lụt năm Thìn
Lụt Năm Thìn vẫn nằm
trong trí nhớ của người dân VN qua các trận lụt sau đây:
Lụt năm Giáp Thìn (tháng 9, 1844). Kinh đô Huế mưa to gió lớn, nước ngập sâu 4.2 m trong kinh thành. Tỉnh
Thừa Thiên hơn 1000 người chết, 2000 nhà bị sập hoàn toàn. Tại Quảng Trị nước
ngập sâu 6.72 m, 79 người chết đuối, hơn 3000 nhà bị sụp đổ.
Lụt năm Giáp Thìn (1904). Xảy ra ngày 1/5/1904, nhằm ngày 13/3/ Giáp Thìn, do một trận bão lớn,
cùng lúc thủy triều cao gây những đợt sóng cao 10m như sóng thần, càn quét
khắp vùng duyên hải Nam phần đến tận Campuchia. Thiệt hại lớn nhất là Gò Công,
Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn. Nhiều làng ven biển ở Gò Công bị cuốn trôi. Vì mưa
lớn, nước lụt dâng nhanh, có nơi ngập sâu 3m.
Mỹ Tho bị thiệt hại 35%, các vùng phụ cận tỉnh Mỹ Tho từ Thừa Đức lên tới
An Hồ 30% nhà cửa sập đổ, vườn dừa bị gãy; Gò Công trên 60%, 5.000 người chết
trôi ở các làng ven biển vùng cửa Khâu, làng Kiểng Phước, Tân Bình Điền, Tân
Thành, Tăng Hoà…60% nhà cửa bị sập, 80% gia súc chết. Tại Sài Gòn, số người
chết hơn 3.000 người.
Cũng năm Giáp Thìn này (1904) lũ lụt lớn cũng xảy ở miền Trung, từ Huế cho
tới Nghệ An. Tại Thừa Thiên-Huế đã xuất hiện một cơn bão cực mạnh ngày
11-9-1904 gây nhiều tổn thất về người và tài sản, nhiều công trình kiến trúc
trong kinh thành và đình chùa miếu mạo bị hư hỏng, hơn 50.000ha ruộng lúa ở
vùng thấp thuộc lưu vực sông Hương và phá Tam Giang bị nước mặn tràn vào gây
mất mùa liên tục những năm sau đó. Trận thiên tai này đã khiến tỉnh Thừa Thiên
bị thiệt hại nặng nề: 22.027 nhà bị sập đổ, 529 tàu thuyền bị trôi dạt hoặc bị
đắm, 724 người chết.
Lụt năm Nhâm Thìn (1952) xảy ngày mồng 3 tháng 9 năm 1952, nhằm tháng 8 năm Nhâm Thìn. Có thể nói
là cuồng phong (tornado) chứ không phải bão vì cơn lốc có chiều rộng khoảng 40
km, thổi từ Phi Luật Tân thẳng vào Phan Thiết, đến Long Khánh, Thủ Dầu Một và
tắt dần khi vào Campuchia. Thiệt hại nhân mạng và nhà cửa rất lớn do cuồng
phong và lụt ở Phan Thiết, làm ngã rạp rừng và rừng cao su ở vùng Long Khánh,
v...v...
Theo thống kê thời ấy, sông Vàm Cỏ Đông ở đoạn thuộc huyện Châu Thành nước
lên cao 4 mét, chợ Tây Ninh 3,6 mét, vùng Suối Đôi, cầu Lộc Ninh đến 18,7 mét.
Núi Bà Đen bị nước lũ xói mòn đá đứt chân lăn xuống, đùa nhau từ đỉnh đến chân
núi thành 3 đường sâu hoắm, rộng hơn 20 mét. Đứng từ xa 30 cây số vẫn thấy rõ
ba đường lở đỏ ối màu gạch nung, (đến bây giờ vẫn còn vết tích). Hậu quả trận
lụt cũng khá nặng nề. Các cơ quan tỉnh bị mất trắng 100% ruộng rẫy làm lúa,
nhân dân thiệt hại 80%, vùng Châu Thành có 1.073 mẫu ruộng và 315 mẫu rẫy chỉ
còn thu hoạch được 18 mẫu. Trảng Bàng bị mất hết 2/3 mùa màng, 220 nhà bị sập,
92 người chết. Dương Minh Châu thiệt hại thấp nhất cũng có hơn 50% mùa màng
chìm trong biển nước. Nhiều người bị đói phải ăn củ nần, củ chuối, trái rừng
thậm chí cả lá rừng thay cơm.
Lụt năm Giáp Thìn 1964 xảy ra ngày mùng 6 tháng 10 âm lịch tại Quãng Nam với hàng ngàn người
chết. Riêng làng Đông An chết trên 1700 người, chỉ còn 19 người sống sót.
Chính phủ VNCH cứu trợ trận
lụt lịch sử miền Trung năm 1964
Lũ lụt và hiện tượng La Niñas.
Ở vùng Tây Thái Bình Dương, hạn hán thường xảy ra ở những năm có El Niño,
ngược lại bão lụt xảy ra ở những năm có hiện tượng La Niñas.
Ở Miền Bắc, trong số 9 năm có lũ lụt lớn, thì 5 năm có La Niñas (56%). Ở
Miền Trung, trong số 8 năm có lũ lụt lớn thì 5 năm trùng vào La Niñas (63%). Ở
Miền Nam, trong số 19 năm có lụt lớn, thì có 11 năm có hiện tương La Niñas
(58%).
Như vậy, năm nào có La Niñas, thì xác xuất có lũ lụt lớn khoảng trên
55%.
Vì vậy, những năm Thìn có lũ lụt lớn như 1904, 1928, 1952,1964, 2000 đều là
năm có La Niñas.
El Niño và La Niñas là những hiện tượng biến đổi nhiệt độ nước biển ở Thái
Bình Dương. Thông thường, nhiệt độ nước biển mạn đông Thái Bình Dương (khoảng
15,5 – 21,1 ºC) lạnh hơn vùng biển mạn tây Thái Bình Dương (khoảng 26,7ºC). Vào
năm có El Niño, lớp nước mặt ở vùng đông Thái Bình Dương gần xích đạo bị hâm
nóng, làm đảo lộn khí hậu trên thế giới. Vào năm có La Niña, nước lạnh ở đáy
Thái Bình Dương trồi lên mặt, làm nhiệt độ lạnh hơn năm bình thường. El Niño /
La Niña xảy ra với chu kỳ 2-6 năm.
El Niño được tường trình từ năm 1600, và bắt đầu được nghiên cứu từ thế kỷ
19. Từ thế kỷ 20 cho đến nay, El Niño xuất hiện ở các năm:
Trong số này, El Niño mãnh liệt nhất ở các năm 1965/1966, 1982/1983 và
1997/1998 gây lụt lội từ California cho tới Chí Lợi, nhưng khô hạn ở Đông Phi
Châu. El Niño năm 1997 gây mưa lớn kỷ lục ở Florida. Năm 1998, ngược lại nước
vùng biển đông Thái Bình Dương trở nên lạnh bất thình lình do La Niña, thì Florida
lại hạn hán kỷ lục. Năm 1998 là năm thế giới có nhiệt độ cao nhất là do hậu quả
của El Niño xảy ra cuối năm 1997, tiếp theo là La Niña làm thế giới mát dịu hơn
ở những năm sau đó.
Từ thế kỷ 20 cho tới nay, La Niñas xuất hiện ở các năm:
1904/1905, 1909/1910, 1910/1911, 1915/1916, 1917/1918, 1924/1925,
1928/1929, 1938/1939, 1950/1951, 1954/1956, 1956/1957, 1964/1965, 1970/1971,
1971/1972, 1973/1974, 1975/1976, 1984/1985, 1988/1989, 1995/1996, March
1998/early 2000, late 2000/early 2001, 2007/2008, 2008/April 2009. July
2010/2011.
Riêng trong thời kỳ La Niñas 1988/1989, nhiệt độ nước mặt đại dương lạnh
hơn năm bình thường tới 2,2 ºC.
La Niñas xảy ra 11/2011 gây lụt trầm trọng ở Thái Lan và đồng bằng Cửu Long
của Việt Nam. La Niñas tiếp tục kéo dài đến tháng 5/2012, năm Nhâm Thìn. Mùa lũ
lụt ở Miền Trung và Miền Nam xảy ra từ tháng 9 đến tháng 12 DL, tức lúc La
Niñas đã chấm dứt. Vì vậy, hy vọng không có lũ lụt lớn trong năm Nhâm Thìn
2012. Cần ghi nhớ là trận bão năm Giáp Thìn xảy vào ngày 1/5/1904, là tháng năm
bắt đầu của La Niñas.
Trung phần
Trải qua những tiến trình
lịch sử, vùng Trung phần được xem như trạm trung chuyển, đất dừng
chân khi người Việt cổ di cư về phía Nam. Khí hậu Trung phần
được
chia ra làm hai khu vực chính là Bắc Trung phần và Duyên Hải Nam
Trung phần.
Vùng Bắc Trung phần (bao gồm toàn bộ
phía Bắc đèo Hải Vân) về mùa đông, do gió mùa thổi theo hướng Đông Bắc mang
theo hơi nước từ biển vào nên khu vực chịu ảnh hưởng của thời tiết lạnh và kèm
theo mưa nhiều, một điểm khác biệt với thời tiết khô hanh mùa Đông ở vùng Bắc phần. Về mùa Hè không
còn hơi nước từ biển đưa vào nhưng có thêm gió mùa Tây Nam (còn gọi là gió Lào)
tràn ngược lên, thường gây ra thời tiết khô nóng với nhiệt độ ngày có khi lên
tới trên 40 độ C, trong khi đó độ ẩm không khí lại rất thấp.
Vùng Duyên hải Nam Trung phần bao gồm khu vực đồng bằng ven biển Nam Trung phần thuộc phía Nam
đèo Hải Vân. Gió mùa Đông Bắc khi thổi đến đây thường suy yếu đi và bị chặn lại
bởi dãy Bạch Mã. Vì vậy, khi về mùa hè có gió mùa Tây Nam thổi mạnh từ vịnh
Thái Lan, vượt qua dãy núi Trường Sơn, gây nên thời tiết khô nóng cho toàn khu
vực.
Đặc điểm nổi bật của vùng khí hậu Trung phần là có mùa mưa và mùa khô không cùng xảy ra vào
một thời gian trong năm, với mùa mưa và khô của hai miền khí hậu còn lại của 2
vùng Bắc phần và Nam phần.
Thừa Thiên - Huế là một trong các tỉnh có lượng mưa nhiều nhất ở Việt Nam với
lượng mưa trung bình năm vượt trên 2.600mm, có nơi lên đến 4.000mm. Có các
trung tâm mưa lớn như khu vực Tây A Lưới - Động Ngại (độ cao 1.774m) có lượng
mưa trung bình năm từ 3.400 - 5.000mm, khu vực Nam Đông - Bạch Mã - Phú Lộc có
lượng mưa trung bình năm từ 3.400 - 5.000mm. Đồng bằng duyên hải Thừa Thiên -
Huế có lượng mưa ít nhất, nhưng trung bình năm cũng từ 2.700 - 2.900mm.
Hàng năm có từ 200 - 220 ngày mưa ở các vùng núi, 150 - 170 ngày mưa ở khu vực
đồng bằng duyên hải. Vào mùa mưa, mỗi tháng có 16 - 24 ngày mưa. Những đợt mưa
kéo dài nhiều ngày trên diện rộng thường gây ra lũ lụt lớn.
Địa hình phía Tây từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế bao gồm các dãy núi cao. Các
dòng sông ở đây có dòng chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đổ ra biển thường có
lòng sông hẹp, độ dốc lớn, diện tích lưu vực nhỏ, nên với lượng mưa tương đối
lớn trút xuống sẽ sinh ra lũ, lên nhanh và gây lụt lội cho các khu vực đồng
bằng thấp phía Đông. Như Sông Hương - sông Bồ (độ cao đầu nguồn là 1.318m, dài
trên 100km, diện tích lưu vực 2.690km2) chảy gần theo hướng Bắc Nam đổ ra biển
ở cửa Thuận An. Toàn bộ diện tích lưu vực sông Hương có trên 80% là đồi núi,
khu vực đồng bằng còn lại ở mức thấp so với mực nước biển và mực nước lũ, nên
hầu hết sẽ bị ngập khi có lũ trên báo động cấp 3 (tương ứng 3,5m).
Mùa mưa đến với lượng mưa chiếm 68 - 75% lượng mưa trong năm sẽ phát sinh lũ
lụt lớn, gây thiệt hại sản xuất, tài sản, tính mạng cư dân, tác động tiêu cực
đến môi trường sinh thái. Ngược lại, trong mùa ít mưa thì nước lại không đủ
cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất của một số địa phương trong vùng.
Mưa lũ ở Bắc Trung phần thường xảy ra từ tháng 7 đến tháng 10, ở vùng
Duyên hải Nam Trung phần thường xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12.
Tây Nguyên
Vùng Tây Nguyên (bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng với diện tích tự nhiên là 54.474 km2 chiếm 16,8% diện tích tự nhiên cả
nước) là vùng trọng điểm phát triển kinh tế của Việt Nam và là nơi sinh sống
của gần 6 triệu người bao gồm nhiều chủng tộc.
Tây Nguyên có các lưu vực sông chính là
sông Ba, sông Đồng Nai, Sê San và Sêrêpốk. Trong đó, lưu vực Sê San và Sêrêpốk
chiếm diện tích tự nhiên lên tới 29.884 km2 và cũng là hai phụ lưu quan trọng,
đóng góp lượng nước lên tới 18% cho lưu vực sông Mekong.
Dưới áp lực phát triển trong những thập niên vừa qua, hệ sinh thái cảnh
quan của vùng Tây Nguyên đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng thiếu bền vững.
Theo số liệu của Tổng cục Lâm Nghiệp từ năm 2008-2014, độ rừng che phủ tại Tây
Nguyên đã mất đi hơn 358.700 ha, tương đương mỗi năm mất hơn 51.200 ha rừng.
Việc phát triển thủy điện trên dòng chính và các dòng nhánh của Sê San và
Sêrêpốk đã và đang tác động tiêu cực đến tài nguyên nước, nguồn lợi thủy sản tự
nhiên, sinh kế người dân. Ngoài ra, thiếu quy hoạch thống nhất trong phát triển
thủy điện cũng là một trong những nguyên nhân khiến nguồn nước mặt tự nhiên bị
chia cắt, phân mảnh và giảm sút. Quá trình mở rộng diện tích cây công nghiệp
như cà phê, cao su, hạt tiêu, điều tại khu vực Tây Nguyên dẫn đến khai phá đất
rừng diễn ra mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Nguồn nước ngầm tại khu vực này
đang trong tình trạng kiệt quệ.
Động lực về nhu cầu điện khu vực Đông Nam
Á
Kế hoạch
phát triển kinh tế Lào gần như hoàn toàn dựa vào tiền đề xuất khẩu hầu hết 24
GW công suất thủy điện tiềm năng của mình cho các nước láng giềng. Tuy nhiên,
thay đổi chính sách năng lượng khu vực đặt câu hỏi liệu các nhu cầu dự
kiến của Lào
thủy điện sẽ thành hiện thực. Thái Lan hiện đang là khách hàng chính yếu của Lào, nhưng nó có một lịch sử đánh giá quá cao nhu cầu. Như Thái
Lan trau chuốt dự báo năng lượng và bắt đầu tích cực theo đuổi hiệu quả năng lượng, nhu
cầu đối với Lào có khả năng giảm đáng kể. Cambodia và Myanmar
là những thị trường xuất khẩu tiềm năng như cả hai phải đối mặt với tình trạng
thiếu hụt đáng kể nguồn
điện. Nhưng mối quan tâm an ninh năng lượng được ưu tiên phát triển
các nguồn thủy điện trong nước để tránh sự phụ thuộc vào nhập khẩu trong tương lai. Myanmar
đã phát triển khí đốt tự nhiên, thủy điện, và tiềm năng năng lượng mặt trời, mà
khả năng có thể vượt qua nhu cầu trong nước. Myanmar có thể sẽ trở thành một nước xuất khẩu
năng lượng ròng và một đối thủ cạnh tranh với Lào.
Việt Nam đứng ra như thể là thị trường lớn nhất trong tương lai mua nguồn điện Lào, tiêu thụ điện của Việt Nam hiện đang tăng 10-12% mỗi năm và dự kiến
sẽ tăng trưởng ở mức 7-10% mỗi năm cho đến năm 2030. Trong năm 2015, Việt Nam
chuyển từ một nước xuất khẩu ròng năng lượng để nhập khẩu ròng do nhu cầu than
trong nước tăng cao.
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng dự kiến này trong cập nhật phát triển điện kế hoạch VII,
trong đó dự đoán rằng nó sẽ cần 130 GW điện vào năm 2030. Kế hoạch cập nhật đáp
ứng cho thị trường và áp lực biến đổi khí hậu bằng cách tăng tài trợ cho năng
lượng tái tạo và loại bỏ một số đề xuất nhà máy điện chạy bằng than. Nhưng than vẫn sẽ đóng một vai trò quan trọng, tăng từ 28% của
thế hệ điện quốc gia vào năm 2014 lên hơn 50% vào năm 2030. Hơn nữa, kế hoạchVII ưu tiên đáp ứng nhu cầu tăng trưởng với nguồn lực trong nước
và không có nguồn tài khoản đầy đủ và cơ hội cho các khu thương mại khu vực, trợ
cấp điện hiện nay không khuyến khích nhập khẩu điện từ Lào, nhưng chúng sẽ được
thể rút khỏi Việt Nam hết các tùy chọn năng lượng trong nước.
Kế hoạch VII gồm 860 MW nhập khẩu điện từ Lào vào năm 2020. Điều này là không đáng kể với tiềm năng thủy
điện Lào và khả năng chi trả tương đối của điện của nó. Việt Nam gần đây đã ký
một biên bản ghi nhớ với Lào để mua 5.000 MW điện vào năm 2020 nhưng điều này vẫn
chỉ chiếm chưa đầy 3% nhu cầu điện của Việt Nam. Việt Nam có thể đáp ứng nhu cầu
năng lượng của mình với chi phí tài chính và môi trường thấp bằng cách gia tăng
đáng kể nhập khẩu thủy
điện của Lào. Việt Nam qua đó có thể tận dụng
lợi thế về vai trò của nó như là một nhà nhập khẩu lớn để bảo vệ năng suất cao từ sông Mekong từ những tác động của các đập ở thượng nguồn.
Gần đây, giá toàn cầu về năng lượng gió và mặt trời đã giảm đáng kể, với mức
giá của tấm pin mặt trời (solar
power) giảm hơn 40% từ năm 2010 đến
năm 2014. Giá cả sẽ
tiếp tục giảm, làm cho năng lượng mặt trời và gió cạnh tranh với các nhiên liệu
hóa thạch. Giá năng lượng của Việt Nam được ước tính sẽ tăng lên $ 0,092 / kWh
vào năm 2020 do chi phí cao hơn than nhập khẩu. Điều này sẽ làm cho cả thủy điện Lào, được bán với giá $ 0.06- $ 0,07 / kWh, và năng lượng mặt trời
trong nước hoặc nhập khẩu, được bán với giá $ 0,072 lựa chọn thay thế, giá cả
phải chăng và sạch hơn để than.
Mở rộng cả năng lượng tái tạo và xuất khẩu năng lượng sẽ giúp Lào gặp hai trong
sáu mục tiêu giảm thiểu tác động của nó trong của Dự định đóng góp toàn quốc
Quyết (INDC) đến UNFCC: Chỉ tiêu 2 "Để tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo tới
30% mức tiêu thụ năng lượng năm 2025" và Mục tiêu 5 "để xây dựng quy
mô lớn (> 15 MW) nhà máy thủy điện để cung cấp điện sạch cho các nước láng
giềng."
Kế hoạch xây dựng thủy điện của Việt Nam Cộng Hòa năm 1965
Tây Nguyên không còn
bình yên từ khi công trình thủy điện chặn nước trên các sông, còn thượng nguồn
thì thành đường thủy mở đường cho lâm tặc chuyển gỗ về xuôi.
Trong 23 năm qua, rừng
Tây Nguyên mất hơn 1 triệu ha rừng do chuyển sang trồng cao su, làm thủy
điện, nạn phá rừng… Số liệu từ dự án tổng điều tra kiểm kê rừng
toàn quốc năm 2015 cho thấy độ che phủ rừng chỉ còn hơn 45%.
Thủy điện lấy đất
Nhà máy Thủy điện Đồng
Nai 3 (huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông) đã hoạt động nhiều năm nhưng đến nay
vẫn gây hệ lụy. Không chỉ biến nhiều diện tích rừng nguyên sinh thành lòng hồ,
nhà máy này còn đẩy 575 hộ dân người dân tộc Mạ, H’Mông ở xã Đắk P’lao vào cảnh
thiếu đất sản xuất hoặc được cấp đất xấu. 42 hộ dân đã bỏ khu tái định cư vào
vùng lõi của Khu Bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng mưu sinh.
Ông Vương Văn Khì, một
hộ dân ở đây, cho biết khi làm nhà máy thủy điện, nhà đầu tư hứa sẽ cấp cho mỗi
hộ 2 ha đất rẫy, 3 sào ruộng nước nhưng cuối cùng chỉ cấp 4 sào mà hộ có, hộ
không. Từ lúc về khu tái định cư, số tiền được hỗ trợ cũng đã tiêu xài hết nên
người dân đành đi làm thuê kiếm sống. Mặc dù lên khu bảo tồn cuộc sống rất tạm
bợ, không có công trình nước sạch, trường học và trạm y tế cách xa hơn 20 km
nhưng bà con vẫn bám trụ vì có đất sản xuất.
Rừng Tây Nguyên suy giảm
diện tích và chất lượng do tình trạng khai thác gỗ trái phép
Ảnh: CAO NGUYÊN
Ông Trần Quốc Toàn, Trạm
trưởng Trạm Kiểm lâm số 2 – Khu Bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng, lo lắng việc 42 hộ
dân sinh sống trong vùng lõi của khu bảo tồn sẽ khiến công tác bảo vệ rừng càng
khó khăn hơn, đặc biệt về lâu dài khi dân số tăng lên. Mới đây, UBND tỉnh Đắk
Nông đã đề nghị Chính phủ cho phép chuyển khu bảo tồn này thành vườn quốc gia
đồng thời đề cử là Vườn di sản ASEAN. Tuy nhiên, điều này khó thành hiện thực
nếu không di dời 42 hộ ra khỏi vùng lõi khu bảo tồn.
Tại tỉnh Kon Tum, theo ông Lại Đức Hiếu - Trưởng
Phòng Quản lý Bảo vệ rừng, Chi cục Kiểm lâm tỉnh, 10 năm qua, tỉnh này đã
chuyển đổi mục đích sử dụng hơn 2.200 ha để xây dựng 18 dự án thủy điện, trong
đó mất hơn 1.567 ha đất lâm nghiệp.
Việc chuyển đổi rừng và đất lâm nghiệp để xây
dựng thủy điện đã thu hẹp đất sản xuất dẫn đến việc người dân lấn chiếm,phá rừng trái
pháp luật để lấy đất sản xuất.
TS Đào Trọng Tứ - nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban
sông Mê Kông, cố vấn Mạng lưới sông ngòi Việt Nam - cho biết Tây Nguyên hiện có
25 dự án thủy điện đã và đang xây dựng, chiếm dụng hơn 68.000 ha đất. “Tính trung bình, 1 MW thủy điện lớn chiếm
dụng khoảng 14,5 ha đất các loại, ảnh hưởng đến đời sống của 5,5 hộ dân. 1 MW
thủy điện nhỏ cũng chiếm dụng khoảng 8,7 ha đất, làm 1,3 hộ dân bị ảnh hưởng” - TS Tứ tính toán.
Lâm tặc
phá rừng
Từ tháng 6 đến tháng
8-2016, tại Lâm Đồng đã xảy ra gần 10 vụ phá rừng trái phép. Lâm tặc còn
liều lĩnh tấn công lực lượng chức năng, nghiêm trọng hơn đã xảy ra giết người,
chống người thi hành công vụ liên quan đến rừng. Hiện các tiểu khu 390A, 390B,
397, 398, 419... thuộc địa bàn huyện Bảo Lâm, khu vực thủy điện Đồng Nai 4 và 5
đã trở thành điểm nóng về phá rừng.
Tháng 7-2016, Bộ Công an
phối hợp cùng các đơn vị liên quan đã triệt phá đường dây khai thác gỗ ở khu
vực giáp ranh nhiều tỉnh như Lâm Đồng, Đắk Nông và cánh rừng Nam Cát Tiên (Đồng
Nai). Khoảng 20 lâm tặc do Lê Hồng Hà (48 tuổi, tức Hà đen) cầm đầu đã lần lượt
sa lưới.
Những cây gỗ quý bị lâm
tặc triệt hạ tại tiểu khu 390A, khu vực lòng hồ thủy điện Đồng Nai 5 (huyện Bảo
Lâm, tỉnh Lâm Đồng)
Ảnh: ĐÌNH THI
Theo một lâm tặc, những
khối gỗ vuông vức dài khoảng 3 m, được kéo xuống lòng hồ thủy điện, lợi dụng
dòng nước kết thành bè, sau đó dùng thuyền lai dắt về phía hạ nguồn, đưa về bãi
tập kết gần cửa đập thủy điện Đồng Nai 5. Tại đó có một bộ phận chuyên trục vớt
đưa lên xe tải để vận chuyển đi tiêu thụ.
Không chỉ ở khu vực thủy
điện Đồng Nai 5 bị lâm tặc tàn phá nghiêm trọng mà các cánh
rừng tại những hồ thủy điện như: Đồng Nai 3 (thuộc huyện Di Linh), lòng hồ thủy
điện Đa Mi - Hàm Thuận (khu vực giáp ranh giữa huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng và
huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận)…, lâm tặc dựng nhiều lán trại dã chiến, dùng
ghe, thuyền lợi dụng dòng nước của đập thủy điện vận chuyển gỗ đi tiêu thụ. Khi
gặp lực lượng chức năng truy quét, chúng cột đá vào gỗ cho chìm sâu xuống nước
nhằm tẩu tán tang vật.
Rạng sáng 10-8, Chi cục
Kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng đã phối hợp cùng Hạt Kiểm lâm huyện Di Linh truy bắt và
tạm giữ hành chính 7 trong số 15 đối tượng phá rừng trái phép tại tiểu khu
727.
Cùng ngày, lực lượng
liên ngành của TP Đà Lạt đưa Chữ Hồng Sáu (40 tuổi; ngụ thị trấn Nam Ban, huyện
Lâm Hà) đến tiểu khu 161 (xã Tà Nung, TP Đà Lạt) dựng lại hiện trường vụ cưa
xẻ, vận chuyển gỗ trái phép và chống người thi hành công vụ. Trước đó, trong
lúc bị vây bắt, Sáu đã dùng bình xịt hơi cay chống trả lực lượng chức năng.
Ngày 1-7, tại tiểu khu
687B (lâm phần thuộc Ban Quản lý rừng Hòa Bắc - Hòa Nam của huyện Di Linh) cũng
xảy ra vụ lâm tặc tấn công, uy hiếp cán bộ quản lý rừng nhằm giải thoát đồng
bọn.
Lâm tặc còn lộng hành
đến mức chống trả quyết liệt lực lượng quản lý, bảo vệ rừng khiến 1 người chết
và 3 người bị thương phải cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng. Vụ việc
nghiêm trọng trên xảy ra tại tiểu khu 243A thuộc địa bàn xã Phi Tô, huyện Lâm
Hà khiến dư luận phẫn nộ.
Từ năm 2010-2014, rừng Tây Nguyên đã giảm hơn
307.000 ha, còn khoảng 2,5 triệu ha, độ che phủ còn 45,8%; trữ lượng rừng giảm
57 triệu m3. Nguồn tài nguyên rừng Tây Nguyên đang suy thoái nghiêm trọng cả về
số lượng, chất lượng và đa dạng sinh học. Gần 67% là rừng nghèo kiệt, các loại
gỗ quý có giá trị cao còn rất ít.
Diện tích phá rừng thực tại
Chỉ trong vòng 4 năm, 73% diện tích rừng
và đất lâm nghiệp giao cho hộ gia đình đã mất đi, mà nguyên nhân chính là việc
người dân chiếm dụng làm đất sản xuất và trồng sắn. Rõ ràng, mục tiêu tạo điều
kiện “ổn định và cải thiện đời sống của đồng bào DTTS” theo quyết định 304 ở mặt
nào đó đã đạt được, nhưng cơ hội “bảo vệ, phục hồi và phát triển rừng một cách
bền vững, hay đẩy nhanh tiến độ thực hiện xã hội hóa nghề rừng” lại là điều
không thể. Không chỉ lấn vào diện tích được nhà nước giao cho quản lý, bảo vệ,
các diện tích của các chủ rừng khác trên địa bàn cũng là đối tượng bị tác động
rất mạnh. Theo thống kê trong nhiều năm, Hạt kiểm lâm Sa Thầy cho biết, người
dân đã lấn chiếm trên 32.000 ha đất của các lâm trường các BQL RĐD, RPH hay cả
các khu vực rừng chưa được giao.
Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông, với diện
tích 25.468,5 ha, chính thức thành lập từ năm 2001 trên địa bàn hai huyện Tánh
Linh và Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Trong những năm gần đây, khu bảo tồn
(KBT) này được coi là một trong những điểm nóng về quản lý, bảo vệ rừng trong hệ
thống rừng đặc dụng Việt Nam bởi những sức ép rất lớn lên rừng.
Trong giai đoạn 2003 – 2014, 2.218,73 ha đất
lâm nghiệp trong ranh giới KBT, thuộc địa phận huyện Tánh Linh, đã bị phá và biến
mất. Nguyên nhân chính được cho là tình trạng chuyển đổi, xâm lấn, xâm canh đất
rừng để lấy đất sản xuất phát triển các loại cây hàng hóa trọng điểm như cao su
và sắn tại địa phương. Hầu hết các diện tích chuyển đổi trái phép này, hiện tại,
đều không thể xử lý bởi không xác định được đối tượng vi phạm do đất đã bị sang
nhượng nhiều lần. Nghiên cứu này tìm hiểu vai trò tiên phong của sắn trong quá
trình xâm lấn, xâm canh và chuyển đổi đất rừng để mở đường cho sự phát triển
các loại cây công nghiệp khác; đồng thời cũng nhấn mạnh vào những lỗ hổng trong
việc phối hợp quản lý giữa Ban quản lý KBT Núi Ông, Ủy ban nhân dân các xã vùng
đệm quanh KBT và cơ quan phát triển nông nghiệp tại địa phương.
Việt Nam hiện nay có chỉ tiêu rừng vào loại
thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14 ha rừng, trong khi mức bình quân của thế
giới là 0,97 ha/ người. Các số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2000 nước ta có
khoảng gần 11 triệu hecta rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 9,4 triệu
hecta và khoảng 1,6 triệu hecta rừng trồng; độ che phủ của rừng chỉ đạt 33% so
với 45% của thời kì giữa những năm 40 của thế kỷ XX.
-Trước đây, rừng chiếm diện tích khoảng 60
triệu km2 .
-Đến năm 1958 chỉ còn 44,05 triệu km2 (chiếm
khoảng 33% diện tích đất liền).
-Năm 1973 còn 37,37 triệu km2 .
Hiện nay diện tích rừng ngày càng giảm, chỉ
còn khoảng 29 triệu km2 .
+ Ở Việt Nam:
-Vào năm 1943 có khoảng 14 triệu ha, tỉ lệ
che phủ 43% diện tích.
-Năm 1976 còn 11 triệu ha, tỉ lệ che phủ
còn 34%.
-Năm 1985 còn 9,3 triệu ha, tỉ lệ che phủ
còn 30%.
-Năm 1995, còn 8 triệu ha và tỉ lệ che phủ
còn 28%.
Là một quốc gia đất hẹp người đông, Việt
Nam hiện nay có chỉ tiêu rừng vào loại thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14
ha rừng, trong khi mức bình quân của thế giới là 0,97 ha/ người. Các số liệu thống
kê cho thấy, đến năm 2000 Việt Nam có
khoảng gần 11 triệu hecta rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 9,4 triệu
hecta và khoảng 1,6 triệu hecta rừng trồng; độ che phủ của rừng chỉ đạt 33% so
với 45% của thời kì giữa những năm 40 của thế kỷ XX.
Tuy nhiên, nhờ có những nỗ lực trong việc thực
hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng,
"phủ xanh đất trống đồi núi trọc" nên nhiều năm gần đây diện tích rừng
ở nước ta đã tăng 1,6 triệu hecta so với năm 1995, trong đó rừng tự nhiên tăng
1,2 triệu hecta, rừng trồng tăng 0,4 triệu hecta. Ở nhiều tỉnh, rừng tự nhiên
giàu còn lại rất thấp, như Lai Châu còn 7,88%, Sơn La 11,95%, và Lào Cai 5,38%.
Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này là do mức tăng dân số đã tạo nhu
cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng
thành đất hoang cằn cỗi. Những khu rừng còn lại ở vùng núi phía Bắc đã xuống cấp,
trữ lượng gỗ thấp và bị chia cắt thành những đám rừng nhỏ phân tán. Tính đến
năm 2010 Việt Nam có tổng diện tích rừng
là 13.388.075 ha, trong đó rừng tự nhiên là 10.304.816 ha và rừng trồng là
3.083.259 ha. Độ che phủ rừng toàn quốc là 39,5% (Theo Quyết định số 1828/QĐ –
BNN –TCLN ngày 11 tháng 8 năm 2011)
Trung Tâm Nghiên Cứu Lâm Nghiệp Quốc Tế (CIFOR)
Giảm Nghèo và Rừng ở Việt Nam
Trung Tâm Nghiên Cứu Lâm Nghiệp Quốc Tế
(CIFOR) là một cơ quan thuộc Nhóm Tư Vấn Nông Nghiệp Quốc Tế được thành lập năm
1993 nhằm nghiên cứu các hậu quả về xã hội, môi trường và kinh tế, gây ra do mất
và suy thoái rừng. Các nghiên cứu của CIFOR mang lại kiến thức và phương pháp
nhằm nâng cao đời sống của những cộng đồng dân sống dựa vào rừng và giúp các nước
nhiệt đới quản lý rừng tốt hơn để có thể đạt được những lợi ích bền vững. Những
nghiên cứu này đã được tiến hành tại hơn 20 nước với các đối tác khác nhau. Từ
khi được thành lập, CIFOR đã đóng vai trò chủ đạo trong việc gây ảnh hưởng đến
các chính sách lâm nghiệp trên toàn cầu cũng như tại các nước.
Nạn phá rừng và việc phục hồi độ che phủ rừng
Có nhiều đánh giá rất khác nhau về sự suy
giảm độ che phủ rừng ở Việt Nam trong nửa thế kỷ gần đây. Diện tích rừng ở Việt
Nam ước tính đạt khoảng 181.500 km 2 (chiếm 55% tổng diện tích đất đai 330.000
km 2 ) vào cuối những năm 1960 và 56.680 km 2 (17% tổng diện tích đất đai) vào
cuối những năm 1980 (Collins et al. 1991:233; De Koninck 1999:3). Theo De
Koninck (1999:3) Việt Nam trở thành nước có nạn phá rừng nhanh nhất trong số
các nước Đông Nam Á với khoảng hai phần ba độ che phủ rừng bị mất đi trong giai
đoạn này. Võ Qúy (1996 xem trong De Koninck 1999:9) cho rằng độ che phủ rừng đã
giảm từ 43% vào năm 1943 xuống còn 20% vào năm 1993.
Ước tính rằng trong giai đoạn 1976-1990, mỗi
năm diện tích phủ rừng tự nhiên của Việt Nam giảm trung bình 185.000 ha (ADB
2000:i). Số liệu về diện tích rừng hiện nay là một vấn đề gây nhiều tranh luận.
Một đánh giá của chính phủ Việt Nam xác định diện tích rừng vào năm 2000 là
9.819.000 ha (30,2% tổng diện tích đất đai) (FAO 2003a:133); điều này cho thấy
một sự gia tăng đáng kể về độ che phủ rừng từ cuối những năm 1980 (xem số liệu ở
trên). Các nguồn thông tin của chính phủ cho rằng độ che phủ rừng đã được phục
hồi đáng kể vào những năm 1990 nhờ hạn chế tốc độ phá rừng và do các nỗ lực trồng
rừng, tuy nhiên một số nhà quan sát phát triển không đồng ý với nhận định này
(ADB 2000:i-ii). Lang (2001:113) cho rằng số liệu về độ che phủ rừng ở Việt Nam
rất khác nhau, tùy vào mục đích chúng được mang ra để sử dụng, hoặc là để gây sự
chú ý đến nạn phá rừng nhanh, hay ngược lại để chứng minh là Việt Nam đã đạt được
mục tiêu trồng rừng.
Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á, các
nguyên nhân chính của nạn phá rừng ở Việt Nam là do sức ép dân số đã làm gia
tăng nhu cầu về các sản phẩm rừng, đất nông nghiệp và do việc các Lâm trường Quốc
doanh khai thác gỗ từ các diện tích rừng lớn (ADB 2000:i). De Koninck (1999:15)
cho rằng nguyên nhân chủ yếu của nạn phá rừng nhanh chóng ở Việt Nam là do: “sự
gia tăng dân số; tăng trưởng kinh tế và nhu cầu ngày càng gia tăng về lương thực,
xuất khẩu nông nghiệp và các sản phẩm rừng–chủ yếu là gỗ cho công nghiệp giấy
và bột giấy, xây dựng và nhiên liệu”. Ông chỉ ra bốn “yếu tố cơ bản” gây ra nạn
phá rừng của Việt Nam:
(1) việc một số dân tộc thiểu số dựa quá
nhiều vào du canh du cư;
(2) mở rộng đất làm nông nghiệp;
(3) khai thác gỗ, cả hợp pháp lẫn không hợp
pháp; và (4) thu hoạch các loại sản phẩm rừng phục vụ cho nhu cầu sinh sống (De
Koninck 1999:15). Ông Lang (2001:115-122).
Giới thiệu nhấn mạnh đến vai trò của chính
phủ và các doanh nghiệp thương mại và chỉ ra các tác động chính gây ra nạn phá
rừng như sau:
(1) chiến tranh Đông dương lần thứ hai và
việc sử dụng các xe ủi đất lớn, bom, thuốc diệt cỏ và bom napan của quân đội Mỹ
3 ;
(2) các chương trình tái định cư của chính
phủ, hiện tượng di cư và mở rộng đất đai trong giai đoạn sau chiến tranh; và
(3) hoạt động khai thác gỗ của các Lâm trường
Quốc doanh (SFEs). De Koninck (1991:11) và Lang (2001:118-120) đều nhận xét việc cho rằng những người dân tộc
thiểu số đóng vai trò chính trong việc mất rừng ở Việt Nam là không chính xác.
Trong số các hậu quả do nạn phá rừng nhanh chóng gây
ra có việc mất đất ở vùng cao, lắng bùn ở các hệ thống thủy lợi ở hạ du, lũ lụt
và hạn hán ngày càng khốc liệt (ADB 2000:i) và việc mất đa dạng sinh học nghiêm
trọng (Jamieson al.1998:3).
Nạn phá rừng và thoái hóa rừng được cho
là nguyên nhân gây làm tăng nạn lũ lụt và hạn hán buộc chính phủ phải có các biện
pháp giải quyết mạnh mẽ.
Bắt đầu từ năm 1992, chính phủ Việt Nam đã
có nhiều nỗ lực làm ổn định và phục hồi độ che phủ rừng. Năm 1998, Chương trình
Tái trồng 5 triệu ha rừng được triển khai với mục đích tăng độ che phủ rừng từ
xấp xỉ 9 triệu ha (28% độ che phủ rừng) lên 14,3 triệu ha (43% độ che phủ rừng)
vào năm 2010 (MARD 2001:1&5). Trong số 5 triệu ha rừng trồng thêm, 2 triệu
ha sẽ là rừng sản xuất, 2 triệu ha sẽ là rừng phòng hộ và rừng đặc dụng và 1
triệu ha sẽ là rừng cây lâu năm (ADB 2001:ii). Chương trình 5 triệu ha rừng có
ba mục đích. Mục đích về môi trường nhằm bảo vệ và phục hồi các chức năng của
lưu vực sông, giảm thiểu xói lở đất và tình trạng lưu lượng nước thất thường. Mục
đích kinh tế của chương trình là phấn đấu để nâng cao vai trò của ngành rừng
trong tăng trưởng kinh tế. Mục đích xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho các nhóm
dân dễ bị tổn thương nhất trong xã hội (MARD 2001:vi).
Theo kết quả của Viện
Điều tra và Quy hoạch rừng (1995), thì trong thời gian 20 năm từ năm 1975 đến
năm 1995, diện tích rừng tự nhiên giảm 2,8 triệu ha. Đặc biệt nghiêm trọng ở
một số vùng, như Tây Nguyên mất 440.000ha, vùng Đông Nam Bộ mất 308.000ha, vùng
Bắc Khu IV cũ mất 243.000ha, vùng Bắc Bộ mất 242.500ha. Nguyên nhân là do sau
thời kỳ chiến tranh, dân địa phương tranh thủ chặt gỗ làm nhà và lấy đất trồng
trọt. Tình trạng đó vẫn còn đang tiếp diễn cho đến ngày nay. Vụ phá rừng Tánh
Linh, Bình Thuận vừa bị xét xử là một bằng chứng về sự yếu kém trong quản lý
tài nguyên rừng, nạn tham nhũng và thoái hoá của một số cán bộ địa phương đã cấu
kết với bọn lâm tặc phá hoại một diện tích rừng rất lớn, mà phải sau một thời
gian dài mới bị trừng trị. Đó là chưa nói đến nhiều vụ phá rừng nghiêm trọng
trong mấy năm gần đây chưa bị pháp luật trừng trị một cách nghiêm khắc, như ở
Kon Tum, Gia Lai, Bình Thuận, Nghệ An, Bắc Giang, Vườn quốc gia Phú Quốc mà báo
chí đã đưa tin (2003). Gần đây nhất mới phát hiện vụ phá rừng lớn trái phép tại
Vườn quốc gia Kon Ka Kinh. Tại hiện trường, cơ quan điều tra đã phát hiện một
số lượng lớn gỗ, hơn 2.400m3 do giám đốc Lâm trường Mang Đen, giám
đốc Lâm trường Tân Lập cầm đầu, cùng với một số người khác, như trưởng trạm cửa
rừng Lâm trường Mang Đen, giám đốc một số công ty trách nhiệm hữu hạn ở Kon Tum
và thành phố Hồ Chí Minh khai thác bất hợp pháp. Một số lượng gỗ lớn bị khai
thác trong thời gian dài mà không bị phát hiện đã minh chứng sự buông lỏng quản
lý của các cơ quan có trách nhiệm, đặc biệt là các cơ quan cấp phép và quản lý
khai thác (Đài Truyền hình Việt Nam, VTV1, ngày 15-12-2003).
Theo số liệu thống kê
chưa đầy đủ, sáu tháng đầu năm 2003, cả nước đã xảy ra khoảng 15.000 vụ vi phạm
lâm luật, hàng chục vụ kiểm lâm bị lâm tặc tấn công. Do giá trị mang lại từ lâm
sản lớn, cho nên bọn lâm tặc không từ một thủ đoạn nào để đối phó, hành hung
người thi hành công vụ (Báo Nhân dân, ngày 14-12-2003).
Cảnh sát quốc tế Interpol và tội phạm phá rừng
Trong năm 2012, INTERPOL ra mắt dự án LEAF (Hỗ trợ thực thi Luật
Lâm nghiệp), một sáng kiếnnhằm mục đích chống lại các
khía cạnh khác nhau của tội phạm lâm nghiệp, bao gồm cả khai thác gỗ bất hợp
pháp và buôn bán gỗ, vàtội phạm liên quan, chẳng hạn như tham nhũng. Dự án liên quan đến
việc hợp tác giữa INTERPOL vàLiên Hợp Quốc Chương trình
Môi trường (UNEP) và cung cấp một phản ứng toàn cầu phối hợp đểtội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia và liên quan đến lĩnh vực lâm nghiệp.
1-http://www.econ.ucsb.edu/~deacon/RentSeekingResourceCurse%20Sept%2026.pdf.
2- Dự án CÂY (Gỗ Quy chế thực thi để bảo vệ ngành
Gỗ Châu Âu từ thâm nhiễm tội phạm) là mộtDự án tổ hợp
tài trợ bởi Ủy ban châuÂu, với sự hỗ trợ từ INTERPOL.
3- Trong
năm 2013, Dự án LEAF xác định tham nhũng là một trong những yếu tố chính tạo điều
kiện cho tội phạm lâmtrong báo cáo của mình, Đánh giá Năng lực thực thi pháp luật nhu cầu
để Tackle tội phạm rừng. Dự án LEAFhiện đang làm việc cùng với
các quan chức thực thi pháp luật chống tham nhũng INTERPOL vàTội
phạm Tài chính Sub-cục để hỗ trợ các nước thành viên trong việc giải quyết vấn
đề tham nhũng trongngành lâm nghiệp
Bắt thớt để... bảo
vệ rừng
LĐO Nguyễn Duy Xuân 10:4 AM, 13/01/2017
Tổ tuần tra Hạt kiểm lâm huyện Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang)
bắt giữ Giàng Mí Lầu
vận chuyển 2 tấm thớt trái phép (ảnh theo báo Đất Việt)
Thông tin trên các báo cho biết, Kiểm lâm Hà Giang vừa lập được một chiến
công xuất sắc trong những ngày đầu năm mới: Tổ tuần tra Hạt kiểm lâm huyện
Mèo Vạc, (tỉnh Hà Giang) vừa bắt giữ hai đối tượng vận chuyển gỗ trái phép.
Tin cho biết, khoảng 9h30 ngày 4.1, tại trung tâm thị trấn Mèo
Vạc, tổ tuần tra kiểm lâm phát hiện Giàng Mí Lầu (SN 1992, trú tại thôn
Sảng Trải A, xã Lũng Pù, huyện Mèo Vạc) điều khiển xe máy mang BKS 23B1 -22703
chở theo 2 thớt gỗ nghiến, đường kính 50cm.
Trên đà thắng lợi, ngay trong ngày, tổ tuần tra tiếp tục phát
hiện, truy đuổi và bắt giữ Vàng Chứ Lình (SN 1985, trú tại xã Sà Phìn,
huyện Đồng Văn) cùng tang vật là 2 thớt gỗ
nghiến, đường kính 30-40cm đang trên đường đi tiêu thụ.
…Các anh phải được khen
thưởng xứng đáng để động viên, để nuôi dưỡng lòng dũng cảm và tinh thần kiên
quyết không bỏ lọt tội phạm đặng tiếp tục lập được những chiến công hiển hách
hơn trong tương lai, ví như lôi được những con voi đã chui lọt ra khỏi lỗ kim!
Và máu của rừng sẽ không còn chảy nữa! Lúc đó chắc là dư luận sẽ hỉ hả, sung
sướng và tự hào về các anh lắm lắm!
Việt Nam là một thành viên tham gia
tích cực vào các sáng kiến quốc tế liên quan đến REDD+, gồm FCPF của Ngân hàng
Thế giới và chương trình Hợp tác của LHQ về giảm Phát thải nhà kính do Mất rừng
và Suy giảm rừng ở các nước đang phát triển (UN-REDD). Tháng 8 năm 2009, Việt Nam bắt đầu
tham gia giai đoạn 1 của UN-REDD với mục tiêu phát triển năng lực ở cả cấp
trung ương và địa phương và tăng cường hợp tác khu vực trong việc chuẩn bị cho
REDD+. Giai đoạn này được nhận 4,32 USD triệu viện trợ. UN-REDD dự kiến sẽ trình
đề xuất Giai đoạn 2 để nhà tài trợ duyệt trước cuối năm 2011. Việt Nam
cũng được nhận hỗ trợ kỹ thuật song phương từ các chính phủ Úc, Đức, Phần Lan,
Nhật Bản và Mỹ và từ Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Trung tâm Nông
Lâm Thế giới (ICRAF), Winrock và Tổ chức phát triển và Tổ chức phát triển Hà
Lan (SNV).
Nhiều khuất tất
trong dự án trồng rừng 661
Dân trí Dự án
trồng rừng 661 triển khai năm 2000 ở xã Xuân Lộc (huyện Phú Lộc) nhằm giúp dân
nghèo khắc phục hậu quả cơn lũ lịch sử năm 1999. Thế nhưng, thay vì đến với
người nghèo, cán bộ xã Xuân Lộc đã cấp đất dự án cho chính vợ con mình...
8 tuổi vẫn được cấp đất
Năm 2000, Dự án trồng rừng 661 (khắc phục hậu quả sau
lũ lịch sử năm 1999) do Hạt Kiểm lâm huyện Phú Lộc làm chủ đầu tư với 100%
nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước.
Theo quy định của dự án, người dân xã Xuân Lộc có tài
sản bị thiệt hại nặng do trận lũ năm 1999, có sức khoẻ và có nhu cầu trồng rừng
thì được giao đất. Dự án được triển khai với tổng diện tích là 92 ha và 53 hộ
dân tham gia.
Mỗi ha rừng sẽ được đầu tư 2,6 triệu đồng và tiền chăm
sóc sẽ được hưởng hàng năm.Tuy nhiên,
cán bộ xã Xuân Lộc đã không triển khai đúng như qui định của dự án mà lại theo
hướng “ôm” cả dự án về cho lãnh đạo xã.
Cụ thể, khi triển khai dự án, cán bộ xã thông báo cho
dân mỗi ha được hưởng 350.000 đồng và giao cho mỗi thôn chỉ đăng ký 4 - 5
người, mỗi người chỉ được nhận trồng từ 0,5 - 1 ha. Còn lại cán bộ xã, thôn và
người nhà đã chiếm hơn phân nửa diện tích đất dự án.
Ông Phan Văn Thể, nguyên Chủ tịch UBND xã (nay là Chủ
tịch HĐND xã) được trồng với diện tích 14,9 ha. Diện tích này được đứng tên bởi
vợ ông và 4 đứa con trai của ông (chưa tách hộ). Trong đó, Phan Tiến được cấp
0,8 ha khi mới 13 tuổi và Phan Minh Đức không có mặt tại địa phương vẫn được
cấp 3,9 ha.
Ông Nguyễn Công Toán, Cán bộ ngân sách xã cũng giành 7
ha rừng dự án về cho riêng mình, trong đó con gái Nguyễn Như Ý mới 8 tuổi cũng
được cấp 2 ha.
Theo danh sách 53 hộ được cấp đất rừng dự án, hầu hết
cán bộ xã Xuân Lộc đều "góp mặt". Từ Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Trưởng
Công an, đến cán bộ thôn đều xí phần đất dự án để cho vợ và con mình đứng tên.
Không chỉ cấp đất cho vợ con mình, cán bộ xã Xuân Lộc
còn mượn tên một số hộ dân để nhận trồng rừng rồi nhận tiền hỗ trợ và chăm sóc
"thay" người khác. Trong danh sách 53 hộ dân nhận 92 ha đất thì có
hàng loạt hộ dân bị khai khống diện tích nhận trồng rừng.
“Cướp” đất của dân chia cho cán bộ
Bốn hộ dân Nguyễn Định, Hoàng Đức Nghĩa, Hoàng Đức Sơn
và Hồ Văn Chi đã làm đơn tố cáo việc quan xã cậy quyền “cướp” đất của dân khi
phát hiện ra diện tích 14,9 ha đất rừng của mình bị 2 ông Phan Văn Thể và
Nguyễn Công Toán "cướp".
Để lý giải cho cán việc vì sao hơn 80% đất dự án 661
về tay cán bộ và vợ con của lãnh đạo xã, Phó Chủ tịch UBND xã Xuân Lộc Nguyễn
Dũng cho rằng, vì người dân sợ thua lỗ đã không nhận trồng rừng nên cán bộ phải
đứng ra nhận làm. Tuy nhiên, khi chúng tôi đưa ra việc một số hộ dân không có
đất sản xuất, mấy năm liền đăng ký đất trồng rừng mà không được giải quyết thì
ông Dũng không giải thích được.
Trong kết luận của UBND xã Xuân Lộc ngày 17/12/2007
giải quyết khiếu nại của nhiều hộ dân về việc ông Phan Văn Thể và Nguyễn Công
Toán cướp đất của dân, UBND xã Xuân Lộc cho rằng 2 ông Thể và Toán không có tên
trong danh sách thực hiện dự án nên không liên quan đến việc 2 ông này mượn
danh UBND xã thu hồi đất của dân.
Tuy nhiên, kết luận của UBND xã Xuân Lộc cũng khẳng
định: “Ông Thể để con tên là Phan Minh
Đức đã đi khỏi địa phương, ông Nguyễn Công Toán để con tên Nguyễn Thị Ý, lúc đó
mới 8 tuổi tham gia dự án trồng rừng là không đúng đối trượng”. Rõ ràng kết
luận của UBND xã đã có sự mâu thuẫn lớn.
Theo quy định của dự án, Nhà nước sẽ hỗ trợ 2,6 triệu
đồng/ha, chưa kể tiền công chăm sóc. Tuy nhiên, các hộ dân tham gia dự án chỉ
nhận được nhận số tiền 350.000 đồng và công chăm sóc là 700.000 đồng/ha, còn số
tiền đầu tư ban đầu không biết nằm ở đâu (?).
Người dân xã Xuân Lộc vẫn đang tiếp tục làm đơn khiếu
nại lên cấp trên và Dân trí sẽ trở lại vụ việc này khi có tình tiết mới.
Sắn lên, rừng xuống: Nghiên cứu trường hợp ở Việt Nam
Nghiên cứu “Sắn lên, rừng xuống: Nghiên cứu
trường hợp ở Việt Nam” đưa ra những phân tích về mối quan hệ tương tác giữa xu
hướng mở rộng, phát triển của cây sắn và những ảnh hưởng đến tài nguyên rừng ở
Việt Nam trong những năm gần đây. Các vùng trồng sắn lớn tạiBắc Trung Bộ (như Nghệ An), Tây Nguyên
(như Kon Tum) và Nam Trung Bộ (như Bình Thuận) là những khu vực mà nhóm tác giả
lựa chọn làm địa bàn nghiên cứu.
Ấn phẩm này được thực hiện với sự hỗ trợ của
Quỹ John D. and Catherine T. MacArthur. Các vấn đề trình bày trong ấn phẩm là
quan điểm của các tác giả và không thể hiện quan điểm của nhà tài trợ.
Bản quyền thuộc Trung tâm Con người và
Thiên nhiên. Nội dung báo cáo này có thể được sử dụng cho các mục đích phi
thương mại, không cần xin phép nhưng cần trích dẫn nguồn.
Nghiên cứu trường hợp tại khu vực tái định
cư thủy điện Hủa Na ( xã Hạch Dịch, Đồng Văn và Tiền Phong, huyện Quế Phong, tỉnh
Nghê An) cho thấy, trong 3-5 năm đầu tiên, khi quỹ đất sản xuất cho người dân
không có hoặc chưa đáp ứng thì cây sắn (mì) trở thành lựa chọn hàng đầu cho
sinh kế hộ và đất rừng là nguồn đất chính…
Phần lớn diện tích trồng sắn hiện nay được
cho là đều trồng tận dụng trên đất lâm nghiệp hoặc đã từng là đất lâm nghiệp.
Giả thuyết này hàm ý rằng việc phát triển và mở rộng diện tích trồng sắn đã,
đang hoặc sẽ có tác động tới tài nguyên rừng, đất rừng, cũng như các nỗ lực bảo
vệ rừng ở Việt Nam. Tác động này sẽ trở nên đáng kể hơn khi nhu cầu về đất cho
canh tác sắn ngày một tăng cao do hệ lụy của hình thức canh tác quảng canh truyền
thống, quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình và hướng tới mục tiêu tăng sản lượng thông qua
mở rộng diện tích trồng thay vì đầu tư kỹ thuật thâm canh.
Ghi nhận từ khảo sát thực địa đã chỉ ra
các khía cạnh khác nhau trong mối quan hệ thị 1140/CT-BNN-TT ngày 28 tháng 04
năm 2008), nhưng kết quả trên thực tế lại không mấy khả quan. Tính đến cuối năm
2015, diện tích trồng sắn của cả nước đã vượt qua mức dự báo 2020 hơn 110.000
ha, tương đương vượt 25,77%. Trong thời điểm giá cao su, mía đường giảm mạnh như
trong 2 năm gần đây rất nhiều diện tích trồng cao su đã và đang được chuyển đổi
sang trồng sắn, thì dự kiến, diện tích trồng sắn sẽ có xu hướng tiếp tục tăng
lên trong những năm tới
Kết luận
Chỉ hai tháng cuối năm, các tỉnh miền Trung liên tiếp gánh 5 đợt
mưa lũ lớn khiến 111 người chết và mất tích, 121 người bị thương, nặng nhất là
Bình Định.
Tại cuộc họp trực tuyến ứng phó khắc phục hậu quả mưa lũ khu
vực miền Trung ngày 17/12, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai cho
biết, giữa tháng 10 đến nay, miền Trung xảy ra liên tiếp 5 đợt mưa lũ bất thường.
Điển hình từ 30/10 đến 10/11, lũ xảy ra trên các sông từ Hà Tĩnh đến
Ninh Thuận và khu vực Tây Nguyên kéo dài hơn 10 ngày. Tiếp theo là các đợt ngày
30/11-9/12, lũ diễn ra diện rộng từ Thừa Thiên Huế đến Ninh Thuận. Chỉ ba ngày
sau, miền Trung lại đón đợt lũ mới bắt đầu ngày 12/12 trên phạm vi rất rộng Quảng
Bình - Ninh Thuận và lên cả Gia Lai với lượng mưa có nơi 600-700 mm, gây lũ đặc
biệt lớn ở khu vực này.
Theo những thống kê còn ghi nhận được,
mưa, lũ lụt miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long là một hiện tượng xảy ra hàng
năm trong suốt chiều dài lịch sử của Việt nam.
Ngày nay, với
các kế hoạch khai thác nguồn điện, phá rừng …trồng sắn…càng gây tác hại càng
lúc càng dữ dội hơn. Với địa thế miền Trung và địa hình đặc biệt với độ dốc cao
và chiều ngang ngắn, việc lũ tăng nhanh là điều không tránh khỏi.
Thống kê về mức
độ mưa ghi nhận được từ năm 1965 cho thấy lượng mưa bắt đầu từ tháng 9 cho tới
tháng 11 là thường xuyên
Bản đổ ghi nhận vũ lượng một vài tỉnh
thành Miền Nam Việt Nam vào năm 1965.
Quảng Ngãi: vào tháng 10-12 năm 1965 vũ lượng
là 508mm.
Huế: vào tháng 10 năm 1965 vũ lượng ghi nhận
là 762 mm.
Tại Việt Nam ngày nay, các kế hoạch chiến
lược lâu dài cho nguồn sống của cả dân tộc, một đất nước “các nhà quy hoạch chiến lược ” chỉ nhìn
ngược về tới năm 2013 như lời tuyên bố củaÔng Hoàng Đức Cường, Giám đốc
Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Trung ương nhận định : "lần
đầu tiên chúng tôi phải dùng từ đặc biệt lớn với đợt lũ này", bởi nó
đang lặp lại lịch sử của năm 2013. Ông Cường cho biết thêm, mưa sẽ giảm dần từ ngày mai và lũ sẽ xuống. Tuy
nhiên khoảng cuối tháng mưa lớn gia tăng trở lại nên người miền Trung không được
chủ quan, lượng mưa có thể lên 200-300 mm.
Phá rừng làm thủy điện, nhận viện trợ trồng
rừng nhưng lại cho phá rừng để trồng khoai mì (sắn) là những cái đầu chiến lược
chỉ biết lừa lọc và lừa dối cả quốc tế và chính dân mình.
Tài
liệu tham khảo:
Người
nghèo ở đâu? Cây cối ở đâu?
Đặt
mục tiêu xóa đói giảm nghèo và bảo tồn rừng tại Việt nam