(The unseen risks of hydropower on the Mekong’s economic fabric)
Lan Mercado and Alexis Morgan – Bình Yên Đông lược dịch
Vietnam Investment Review – October 31, 2023
Sự chú trọng ngắn hạn nầy bỏ qua những ảnh hưởng tiêu cực của
thủy điện đối với kinh tế lâu dài rộng lớn hơn của khu vực, nhất là rủi ro gia
tăng mà thủy điện đang tạo ra trong Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – trung tâm
khu vực của kinh tế chế biến.
Việc đánh đổi thường được tranh luận giữa giá trị của điện và
ảnh hưởng đối với cuộc sống của người dân chỉ cào ở trên mặt: đến lúc để xem
xét kỹ lưỡng những hệ quả kinh tế, xã hội và môi trường rộng lớn hơn, nhất là
đối với các thành phần kinh tế chẳng hạn như quần áo, cát, diện tử, thủy sản,
nuôi cá, và lúa.
Không những chúng là những thành phần lớn và gia tăng của
kinh tế, chúng còn tùy thuộc nặng nề vào sông Mekong lành mạnh, một tình trạng
đang bị đe dọa bởi việc phát triển thủy điện đang diễn ra.
Trong nhiều cách, đây là một phương trình kinh tế đơn
giản. Những người ủng hộ thủy điện nhấn
mạnh đến những lợi ích của chúng trong khi bỏ qua những ảnh hưởng tiềm tàng đối
với xuất cảng và sản xuất lương thực. Để
đặt vấn đề nầy vào bối cảnh, đầu tư 6 tỉ USD vào thủy điện trong khu vực, trong
khi lu mờ đáng kể khi so sánh với 260 triệu USD nối liền với xuất cảng vải sợi
và điện tử ở Việt Nam, Cambodia và Lào.
Hơn nữa, trong khi đầu tư thủy điện không thay đổi hay thu
nhỏ lại, thành phần chế biến tiếp tục tăng trưởng đáng kể trong khu vực. Do đó, rất quan trọng để nghi ngờ liệu việc
đánh đổi chúng ta chấp nhận cho thành phần thủy điện tương đối nhỏ có đáng làm
nguy hại các kỹ nghệ lớn hơn nhiều và những nguồn cung cấp cần thiết. Chúng ta đang tạo rủi ro của sự gia tăng năng
lượng tối thiểu làm tập tễnh các kỹ nghệ dựa vào nước ở hạ lưu. Chúng ta cần một đường lối cân bằng hơn.
Mặc dù một số dạng của thủy điện có thể mang lợi đến cho
người dân và thiên nhiên khi nó được dự trù có hệ thống trong một chiến lược
năng lượng khả chấp rộng lớn hơn, tối đa hóa thủy điện đại qui mô đe dọa tăng
trưởng kinh tế trong tương lai trong các thành phần then chốt ở hạ lưu.
Phát triển thủy điện trong Hạ lưu Mekong đe dọa các hệ thống
sinh thái thủy học và xã hội kinh tế qua những biến đổi của chế độ dòng chảy tự
nhiên, làm xáo trộn chu kỳ sinh sản của cá, cô lập các đồng lụt, giảm vận
chuyển phù sa, và việc sản xuất điện không chắc chắn trong những năm khô ngoại
lệ, Nó cũng khuếch đại rủi ro của lũ lụt
và hạn hán, và làm xáo trộn việc tiếp xúc với nước và các chuỗi cung cấp.
Những ảnh hưởng nầy tạo ra ảnh hưởng dợn sóng trên khắp xã
hội. Thí dụ, việc mất mát cá và sụt giảm
trong năng suất của việc canh tác dựa vào lũ lụt đẩy giá lượng thực và lạm
phát, và rồi đến lương bổng – một chướng ngại đáng kể khi thu hút thành phần
chế biến đến các quốc gia Mekong.
Tương tự, phù sa giảm làm giảm độ phì nhiêu của đất và có thể
làm tăng ngập lụt ven biển, trong khi việc xả nước từ đập tạo tính không chắc
chắn cho nông dân và cũng có thể làm tồi tệ thêm ngập lụt ven sông, có thể làm
gián đoạn những chuỗi cung cấp và tàn phá kỹ nghệ - chánh phủ Thái ước tính mất
mát kinh tế do ngập lụt ở Bangkok trong năm 2021 là 42,2 tỉ USD.
Nếu các công ty thấy rằng những khu vực nầy có rủi ro gián
đoạn cao hay chi phí gia tăng, họ sẽ chuyển đi nơi khác. Điều nầy có nghĩa là có mất mát tiềm tàng
trong công ăn việc làm, thuế, và những lợi ích khác từ những thành phần tăng
trưởng then chốt chẳng hạn như quần áo và điện tử, cũng như những vùng quan trọng
của khu vực để sản xuất lương thực. Rủi
ro phát sinh từ thủy điện mới xuất hiện nầy sẽ là một cảnh báo rõ ràng cho tất
cả các quốc gia trong lưu vực Mekong.
Một phúc trình gần đây của WWF có tựa đề Risk or Reward: Hydropower Impacts on Supply Chains in the Lower Mekong
Basin (Rủi ro hay Tưởng thưởng: Ảnh hưởng của Thủy điện đối với Chuỗi Cung cấp
trong Hạ Lưu vực Mekong) cứu xét có hệ thống 5 loại rủi ro – vật chất, thị
trường, tài chánh, quy định, và tiếng tăm – cho 5 chuỗi cung cấp khu vực then
chốt là sản xuất năng lượng, thủy sản và nuôi cá, sản xuất lúa, cát và xây cất,
vải sợi, và điện tử, tiếp xúc với tính dễ tổn thương đáng kể.
Một số rủi ro cho thủy sản và an ninh lương thực trong Hạ lưu
Mekong đã được công nhận rộng rãi bởi các chánh phủ duyên hà, tuy nhiên, phạm
vi đầy đủ của những đe dọa nầy vẫn còn được ước tính thấp. Thủy sản và nuôi cá trong khu vực đối mặt với
rủi ro vật chất, tài chánh và thị trường lớn lao, có khả năng làm mất 21 tỉ
USD.
Các thành phần khác, chẳng hạn như điện tử và vải sợi, nhận
chú ý giới hạn mặc dù chúng cũng dễ bị tổn thương do việc điều hành các nhà máy
thủy điện, gây ra những thách thức dây chuyền tài chánh, quy định và tiếng tăm
cho những hãng xưỡng trong những vùng tiếp xúc cao như ĐBSCL.
Những rủi ro cao nhất liên quan đến việc phát triển thủy điện
đặc biệt cấp tính đối với các quốc gia Hạ Lưu vực Mekong – Cambodia và Việt Nam
– nơi những đe dọa liên kết đối với các hệ sinh thái, an ninh lương thực, và
các kỹ nghệ rõ nhất. Tuy nhiên, những
hậu quả nầy nới rộng xa hơn nhiều, vang dội trên khắp các chuỗi cung cấp toàn
cầu và ảnh hưởng đến các quốc gia tùy thuộc vào khu vực Mekong ổn định và sản
xuất.
Những tiến bộ gần đây nhấn mạnh đến tiềm năng hoàn thành các
mục tiêu khí hậu và năng lượng toàn cầu mà không gây nguy hại cho kỹ nghệ, hệ
sinh thái, và đa dạng sinh học bằng cách làm tổn thương những sông chảy tự do
còn lại của chúng ta. Điều nầy đánh dấu
một thời điểm then chốt nơi việc áp dụng khôn ngoan các tái tạo đúng trong vị
trí đúng có thể tái định nghĩa tính khả chấp của khung cảnh năng lượng của
chúng ta.
Đã đến lúc để những nhà làm chánh sách và doanh thương công
nhận những hệ quả rộng lớn hơn và kết hợp những cứu xét nầy vào các đánh giá
rủi ro của họ. Một sự hiểu biết rủi ro
tổng thể tạo ra cho những chuỗi cung cấp quan trọng rất cần cho việc lấy quyết
định được thông tin rằng ưu tiên hóa sức khỏe lâu dài của hệ sinh thái, phúc
lợi của cộng đồng, và ổn định của kỹ nghệ quan trọng toàn cầu.
Chúng ta cần các giải pháp để giảm nhẹ những rủi ro do thủy
điện gây ra cho kinh tế rộng lớn hơn và đáp ứng sự cần thiết năng lượng bằng
cách nới rộng các nỗ lực để phát triển năng lượng mặt trời và gió.
Đối với các chánh phủ dựa vào việc nhập cảng sống còn từ khu
vực Mekong, hiểu được những rủi ro tiềm tàng được nhấn mạnh trong đàm luận nầy
không chỉ là một chọn lựa mà còn là một bắt buộc chiến lược. Những rũi ro không thấy của thủy điện cũng
đòi hỏi sự can thiệp tiên liệu tử kỹ nghệ, thúc giục họ hành động ngoài việc
công nhận tham gia tích cực.
Trên hành trình đi đến phát triển khả chấp, thành phần tư
nhân thường bị xoi mói vì liên quan tiêu cực với hệ sinh thái của sông. Tuy nhiên, cốt chuyện có thể thay đổi. Các công ty – những hiệu toàn cầu hay những
chuỗi cung cấp địa phương – càng ngày càng gia tăng việc chuyển từ nhận thức
như những người bóc lột đến người bảo vệ nguồn nước.
Với một quyền lợi được ban cho trong chuỗi cung cấp có tính
chịu đựng có thể chịu được những ảnh hưởng con người-khí hậu như lũ lụt và hạn
hán, các công ty đang cung cấp các giải pháp không chỉ cho việc điều hành và
các chuỗi cung cấp, mà còn phục hồi các hệ sinh thái sông mà họ dựa vào.
Những rủi ro được quản lý kém của việc can thiệp tiên liệu
của nhu cầu thủy điện từ những kỹ nghệ đó bị ảnh hưởng tiêu cực, tạo nên một
cấp bách cho họ để đi ra ngoài việc công nhận đơn giản những vấn đề. Họ đánh cược quá nhiều bằng cách bỏ qua trách
nhiệm nầy.
Các liên doanh giữa các diễn viên công, tư và xã hội dân sự
có thể giúp bảo đảm các giải pháp đáp ứng tất cả những cái cần thiết của tất cả
các bên. Chùng ta phải có hành động
chung trước khi chúng ta bị dồn với những thách thức kinh tế, xã hội và môi
trường dài hạn của việc phát triển thủy điện được nhận thức kém.
No comments:
Post a Comment