Wednesday, July 31, 2019
MEKONG TRONG CHIẾN LƯỢC CHÂU Á CỦA HOA KỲ: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
(The Mekong in US Asia
Strategy: Opportunities and Challenges)
Prashanth Parameswaran – Bình Yên Đông lược dịch
The Diplomat – July 8, 2019
Trong vòng hội đàm thượng đỉnh Á Châu được tổ chức vào cuối
tháng nầy ở Bangkok, một trong những lãnh vực then chốt nổi bật trong chánh
sách của Hoa Kỳ sẽ là sự tiếp cận của Washington với phân vùng Mekong – một
vùng đất liền ở Đông Nam Á (ĐNA) mà sông Mekong, một trong những con sông lớn
và dài nhất trên thế giới, chảy qua. Mặc
dù Hoa Kỳ đã quan tâm đến vùng Mekong từ lâu, vai trò của nó sẽ rất quan trọng
trong bối cảnh bành trướng của Hoa Kỳ, kể cả sự gia tăng cạnh tranh giữa Hoa Kỳ
và Trung Hoa và chiến lược của chánh quyền Trump cho một Ấn Độ-Thái Bình Dương
tự do và mở rộng (free and open Indo-Pacific (FOIP)).
Tầm quan trọng của Mekong đã được xác định từ lâu trong chánh
sách của Hoa Kỳ. Sông Mekong - chảy qua
Trung Hoa (có tên là Lancang) và các quốc gia ĐNA gồm có Cambodia, Lào,
Myanmar, Thái Lan và Việt Nam – là một nguồn tài nguyên thiết yếu cung cấp thực
phẩm, nước và giao thông cho hơn 60 triệu người trong vùng. Vào những thời điểm khác nhau, Mekong từng là
nơi giao tiếp hay xung đột giữa các quốc gia ĐNA cùng với các cường quốc có
liên hệ, kể cả Hoa Kỳ trong suốt cao điểm của cuộc chiến Việt Nam. Tầm quan trọng của Mekong trong chánh sách
Châu Á của Hoa Kỳ chỉ gia tăng trong những năm vừa qua, với việc các quốc gia
Mekong tăng cường sức mạnh kinh tế nhưng gặp khó khăn trong việc đối phó với
thách thức và sự xâm nhập ngày càng tăng của Trung Hoa. Trong khi đó, sông Mekong đang lâm nguy vì phát
triển, dân số, áp lực liên quan đến thay đổi khí hậu, kể cả sự bùng phát của
đập thủy điện.
Sông Mekong vẫn là tâm điểm trong chiến lược Châu Á của Hoa
Kỳ ngày nay. Thật vậy, trong chiến lược
FOIP do chánh quyền Trump hình thành, phân vùng Mekong là nơi mà nguyên tắc tự
do và mở rộng có lẽ gặp thử thách lớn nhất.
Phân vùng cũng điển hình cho sự ràng buộc giữa ba trụ cột của FOIP là an
ninh, kinh tế và cai quản vì sự hiện hữu của những thách thức đa dạng xuyên
biên giới. Tương lai của vùng Mekong
cũng có liên quan đến các mục tiêu rộng rãi hơn của Hoa Kỳ, bao gồm thúc đẩy
đồng minh và đối tác, khuyến khích việc đoàn kết ASEAN, tăng cường cam kết kinh
tế của Hoa Kỳ, và đối phó với sự trỗi dậy của Trung Hoa.
Chánh sách của Hoa Kỳ đã đi khá xa trong việc nầy và bắt đầu
hình thành một phản ứng chắc chắn hơn.
Thật vậy, 2019 đánh dấu một thập niên ngày thành lập Sáng kiến Hạ lưu
Mekong (Lower Mekong Initiative (LMI) của chánh quyền Obama, một nỗ lực để cỗ
vũ sự hợp tác và nâng cao khả năng trong vùng ĐNA. Trong khi tiêu điểm của LMI tương đối ít được
chú ý dưới thời chánh quyền Trump và chưa được khai triển tối đa, sáng kiến vẫn
tiếp tục cùng với những nỗ lực liên hệ khác trong chiến lược FOIP, bao gồm các
nỗ lực hạ tầng cơ sở mới và thúc đẩy công việc đang tiến hành bởi đồng minh và
đối tác của Hoa Kỳ chẳng hạn như Nhật Bản và Singapore.
Nhưng thách thức vẫn còn tồn tại. Một số thách thức liên quan đến sự thay đổi
của vùng trong thập niên qua sau khi LMI được phát động, là vấn đề giới hạn
triển vọng cam kết của Hoa Kỳ, hay sự xâm nhập của Trung Hoa qua cơ cấu Hợp tác
Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)) và Sáng kiến Vành đai và Con
đường (Belt and Road Initiative (BRI)) bao quát hơn, có vẽ hấp dẫn đối với các
quốc gia ĐNA nhưng đi kèm với những sợi dây vô hình. Những thách thức khác liên quan đến chính
chánh sách của Hoa Kỳ, liệu có quá khó trong việc thu thập tài nguyên để giải
quyết một loạt các vấn đề rộng lớn – bao gồm môi trường, năng lượng, y tế,
nước, nông nghiệp, cai quản, thay đổi khí hậu, sự nối kết, và quyền phụ nữ -
với thông điệp kèm theo để làm rõ đường lối của Washington độc lập với đường
lối của Bắc Kinh và những tay chơi khác.
Dĩ nhiên, những thách thức nầy không phải là không thể vượt
qua. Các quốc gia ĐNA thận trọng với ảnh
hưởng đang lên của Trung Hoa ở trong vùng ở mức độ khác nhau và họ vẫn mở cửa
cho các giải pháp thay thế. Và nếu Hoa
Kỳ sử dụng tất cả các mũi tên trong bao, kể cả sức mạnh của các tổ chức phi
chánh phủ chẳng hạn như các trường đại học và công ty, Hoa Kỳ có thể sớm sử
dụng những khả năng vô song trong việc trợ giúp các quốc gia nầy cũng như để triển
khai những quyền lợi của Washington trong vùng ĐNA và Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Sông Mê Kông ‘trơ đáy,’ miền Tây sẽ bị hạn mặn, đói kém
July 26, 2019
Nước sông Mê Kông xuống thấp, Đồng Bằng
Sông Cửu Long không có lũ, sinh kế của người dân vùng đầu nguồn An Giang, Đồng
Tháp sẽ gặp nhiều khó khăn. (Hình: Thanh Niên)
CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Nước sông Mê
Kông ở thượng nguồn xuống thấp “chưa từng thấy” ngay trong mùa mưa đã khiến
vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đối diện với hạn mặn xâm nhập, hết tôm cá, cạn phù
sa, sắp rơi vào cảnh đói nghèo.
Đứng ở Bến Ninh Kiều (thành phố Cần Thơ)
nhìn ra sông Hậu Giang, nhánh chính của dòng Mê Kông chảy về hạ nguồn Đồng Bằng
Sông Cửu Long, ông Nhâm Hùng, một nhà nghiên cứu văn hóa ở Cần Thơ nói với báo
Thanh Niên: “Lý ra, giờ này con nước bạc đã về sông Hậu, khởi đầu mùa nước nổi,
kéo theo những đàn cá bống trứng, rồi sau đó là cá linh non. Thế nhưng không hiểu
sao, năm nay nước không có. Ngay trong nội thành Cần Thơ, các con rạch lúc nước
ròng cũng cạn trơ đáy. Thật đáng lo.”
Theo báo Thanh Niên, cùng thời điểm này
hồi năm 2015 lũ cũng rất thấp nhưng mực nước cao hơn. Hệ quả sau đó là sang đầu
năm 2016, Việt Nam hứng chịu đợt hạn hán, xâm nhập mặn lớn chưa từng thấy khiến
10/13 tỉnh thành Đồng Bằng Sông Cửu Long công bố thiên tai, hơn 160,000 hécta
lúa bị thiệt hại. Điều đáng sợ là đợt hạn mặn này có thể lặp lại vào mùa khô
năm 2020
Giải thích về việc này, Tiến Sĩ Dương
Văn Ni, Khoa Môi Trường Tài Nguyên Thiên Nhiên, trường Đại Học Cần Thơ, cho biết
ngay tại Đồng Bằng Sông Cửu Long có hai vùng trữ lũ rất lớn là Đồng Tháp Mười
và Tứ Giác Long Xuyên, được xem là hai túi nước điều hòa cho đồng bằng. Thế
nhưng nhiều năm trước, do chạy theo sản lượng lúa, Việt Nam đã đắp rất nhiều đê
bao để ngăn không cho nước lũ tràn vào khu vực này nhằm tăng diện tích canh tác
lúa vào mùa lũ lên. Việc này đã làm cho diện tích trữ nước của đồng bằng bị thu
hẹp, lượng nước ngọt không giữ lại được, mùa hạn đến thì lượng nước tại chỗ
không còn đủ để bổ sung cho sông Hậu, sông Tiền đẩy bớt nước mặn ra biển. Và
càng vào mùa khô hạn thì xâm nhập mặn càng sâu vào nội đồng.
Thạc Sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc
lập về sinh thái Mê Kông, nói thẳng: “Kinh nghiệm như năm 2016 cho thấy,Việt
Nam gần như không có biện pháp nào để đối phó với những năm khô hạn gay gắt. Dù
có công trình cống đập ngăn mặn thì cũng không có tác dụng ngăn mặn vì bên
trong không đủ nước.”
Làng nổi Chong Khneas của Việt kiều ở Biển
Hồ, Siem Reap, Cambodia “mắc cạn” dù đang là mùa mưa. (Hình: Thanh Niên)
Phân tích về nguyên nhân khiến nước sông
Mê Kông xuống thấp, ông Thiện cho biết lưu vực Mê Kông có hai đoạn gồm thượng
lưu vực là phần chảy trong lãnh thổ Trung Quốc với nguồn nước chủ yếu là từ tuyết
tan ở cao nguyên Tây Tạng, đóng góp vào tổng lượng nước khoảng 16% và Myanmar
đóng góp 2%.
Trong khi đó ở đoạn hạ lưu vực là phần từ
Lào xuống bờ biển Đồng Bằng Sông Cửu Long cung cấp đến 82% lượng nước cho sông
Mê Kông nhờ vào từ những cơn mưa ở Lào (35% tổng lượng nước), Thái Lan,
Cambodia (18% mỗi nơi) và ở tại chỗ Đồng Bằng Sông Cửu Long.
“Đáng ngại là hiện nay theo bản tin dự
báo của Cơ Quan Khí Quyển Và Đại Dương Quốc Gia Mỹ, đang có tình trạng El Nino
yếu và có khả năng lượng mưa trong lưu vực Mê Kông trong vòng 1-2 tháng tới sẽ
thấp. Tại Lào mưa rất ít và mực nước cũng thấp kỷ lục so với tất cả các năm trước.
Điều này đồng nghĩa với việc mùa lũ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ rất thấp kéo
theo sang mùa khô đầu năm 2020, tình trạng xâm nhập mặn sẽ rất khốc liệt,” ông
Thiện nói.
Theo ông Thiện, về lâu dài để tăng cường
sức chống chịu của Đồng Bằng Sông Cửu Long thì cần khôi phục không gian của dòng
sông, để nước có thể vào lại ruộng đồng phải bắt đầu bằng việc giảm bớt một vụ
lúa trong mùa lũ ở Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười. Lũ vào được hai vùng
này không chỉ tích nước điều hòa dòng chảy cho mùa khô mà còn giảm ngập úng cho
các đô thị, đường sá vùng hạ lưu, những nơi không có đê bao.
Trong khi đó, Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Lê Anh
Tuấn, phó viện trưởng Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu (Trường Đại Học Cần
Thơ), cho rằng Đồng Bằng Sông Cửu Long cần giảm ngay diện tích lúa, những nơi
nào không bảo đảm nước ngọt hay kém hiệu quả, bởi lúa chính là cây trồng tốn rất
nhiều nước. Ước tính để làm ra 1 tấn lúa vào mùa khô phải sử dụng 4,000-5,000
khối nước.
“Ngay lúc này, bộ ngành Trung Ương và
các địa phương Đồng Bằng Sông Cửu Long cần nhanh chóng khuyến cáo cho người dân
có những bước chuẩn bị để ứng phó thiên tai,” ông Tuấn khuyến cáo. (Tr.N)
Source:
Miền Tây 'đói' lũ vì nước ở thượng nguồn sông Mekong xuống thấp
Thuy
Tien 31.7.19
Nông dân miền Tây lo ngại lũ không về
thì đồng ruộng sẽ cằn cỗi, sâu bệnh, chuột bùng phát; nắng hạn, xâm nhập mặn khốc
liệt hơn.
Nông dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng
trên cánh đồng khô cằn.
Ảnh: Thành Nguyễn.
Ra thăm cánh đồng 8 ha khô cằn, trơ gốc
rạ của gia đình, lão nông Lê Văn Lam (69 tuổi) ở xã Tân Phước, huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp tỏ ra lo lắng. Ông cho biết, mọi năm lũ nhỏ nhưng nước thượng
nguồn vẫn đổ về tràn đồng lấp xấp. Nhưng nay, kênh nội đồng cạn kiệt như lúc
cao điểm nắng hạn tháng 2, 3. "Sống ở đây mấy chục năm mới tôi thấy cảnh lạ
lùng này", ông nói.
Vụ hè thu này, nhiều diện tích lúa vùng
Đồng Tháp Mười có năng suất thấp do thời tiết bất thường, sâu bệnh nhiều. Giá
thành tăng 3.500 - 3.800 mỗi kg nhưng giá bán thấp, khiến nông dân hòa vốn hoặc
lãi rất ít sau 3 tháng canh tác.
"Mọi người tranh thủ mở đồng cho lũ
vào để đón phù sa, tháo chua rửa phèn, tiêu diệt mầm bệnh nhưng ai nấy đều thất
vọng", ông Lam than vãn và cho biết, nếu không có lũ, vụ sau chắc chắn chi
phí sẽ tăng lên vì đồng ruộng càng bạc màu, mầm bệnh bùng phát, chuột sinh sôi
tung hoành cắn phá lúa, hoa màu...
Cùng cảnh khó, các làng nghề mưu sinh
mùa lũ cũng đìu hiu. Theo ông Lê Hữu Tý - chủ cơ sở sản xuất lưới tại làng lưới
Thơm Rơm (TP Cần Thơ), mọi năm vào dịp này cảnh mua bán ở địa phương rất xôm tụ.
Khách hàng khắp miền Tây và cả Campuchia nườm nượp về lấy lưới bán cho ngư dân
đánh cá. Nhưng nay, lũ không có, hàng chục tiệm nơi đây rơi vào cảnh ế ẩm, sức
tiêu thụ giảm 70%.
"Với 45 năm làm nghề gắn liền với
con nước lên xuống, tôi nhận thấy khoảng 5 - 10 năm thì lặp lại chu kỳ lũ nhỏ một
lần. Nhưng năm nay thì khác rồi. Ngay cả Thái Lan, Campuchia còn chưa có lũ thì
nói gì miền Tây, đoạn cuối của dòng Mekong", ông Tý nói.
Ngày 28/7, mực nước trên sông Hậu tại
Châu Đốc (An Giang) là 1,19 m; sông Tiền tại Tân Châu 1,09 m, lần lượt thấp hơn
cùng kỳ năm ngoái 1,15 - 1,72 m. Cơ quan khí tượng thủy văn dự báo, mực nước đầu
nguồn sông Cửu Long sắp tới lên nhưng không đáng kể. Cụ thể, ngày 1/8, mực nước
tại Tân Châu đạt 1,43 m; Châu Đốc là 1,53 m, thấp hơn cùng kỳ năm trước 1-1,68
m.
Ông Khương Lê Bình - Giám đốc Đài khí tượng
Thuỷ văn tỉnh Đồng Tháp cho rằng, hiện nay nước từ thượng nguồn chưa đổ về là
"đặc biệt bất thường". Cả tỉnh Đồng Tháp, mực nước thấp hơn năm ngoái
rất nhiều; riêng vùng đầu nguồn thấp hơn 1 - 1,4 m. "Hiện, mực nước dao động
chủ yếu do ảnh hưởng của thủy triều, đến cuối tháng 7 vẫn chưa có gì thay đổi.
Sang tháng 8, nước từ thượng nguồn có thể đổ về nhưng không đột biến", ông
Bình cho biết.
Lũ không về miền Tây do nước ở thượng
nguồn sông Mekong đang xuống thấp trong nhiều năm. Theo thông báo của Ủy hội
sông Mekong, mực nước sông Mekong trong đầu mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 7 ở mức
thấp nhất, dưới mức tối thiểu từng ghi nhận trong nhiều năm. Hiện ở Chiang
Saen, tỉnh Chaing Rai, Thái Lan, mực nước đo được là 2,1 m, thấp hơn nhiều so với
mức 3,02 m - mực nước trung bình đo được trong 57 năm (1961 - 2018).
Tại Vientiane (Lào) là 5,54 m, thấp hơn
0,7 m so với trung bình nhiều năm. Ở tỉnh Kratie của Campuchia, nước sông cao
9,31 m, thấp hơn 5,4 m so với trung bình nhiều năm và chỉ nhỉnh hơn một chút so
với mức thấp nhất trong lịch sử.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc
lập về môi trường cho biết, tổng lượng nước trung bình một năm của sông Mekong
là 475 tỷ m3. Ở thượng nguồn, nước chủ yếu do tuyết tan từ cao nguyên Tây Tạng
nhưng đóng góp khá ít, chỉ chiếm 16% và Myanmar đóng góp 2%.
Còn lại 82% lượng nước Mekong do mưa ở
Lào, Thái Lan, Campuchia và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, lượng mưa tại
Lào chiếm 35% tổng lượng nước. Phần lưu vực tại Thái Lan và Campuchia đóng góp
18% mỗi nơi. Còn lượng mưa tại Đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm 11%.
"Theo bản tin dự báo của Cơ quan
Khí quyển và đại dương quốc gia Mỹ, vùng lưu vực Mekong đang có hiện tượng El
Nino yếu, khả năng mưa trong 1 - 2 tháng tới thấp. Tại Vientiane mưa rất ít và
mực nước cũng thấp kỷ lục", ông Thiện nói và cho biết điều này đồng nghĩa
với việc mùa lũ ở miền Tây sẽ rất thấp. Dự báo, mùa khô đầu năm 2020, tình trạng
xâm nhập mặn rất khốc liệt.
Đồng quan điểm, tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó
Viện nghiên cứu Biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ) cho rằng, mực nước sông
Mekong xuống thấp còn do tác động của con người. Năm nay bị khô hạn, các quốc
gia ở thượng nguồn đều tìm cách giữ nước lại bằng các đập thủy điện. Trong đó,
đập Xayabury (Lào) vừa xây xong. Họ đóng đập, chặn ngang dòng sông Mekong để chạy
thử tổ máy, làm nước không chảy xuống vùng Hạ Lào, Biển Hồ (Campuchia) và Đồng
bằng sông Cửu Long.
"Thông thường, cuối tháng 7 Biển Hồ
tràn nước (diện tích 10.000 km2 vào mùa khô; 16.000 km2 vào mùa mưa, độ sâu 1 -
9 m). Nhưng hiện nước ở đó rất ít, nên chắc chắn năm nay lũ về miền Tây nhỏ",
tiến sĩ Tuấn nhận định.
Trước tình hình này, Viện Khoa học thủy
lợi miền Nam khuyến cáo các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long chủ động điều
tiết nước, đảm bảo cho sản xuất vụ hè thu; đồng thời, đề phòng ảnh hưởng hạn mặn
bất thường. Ngành nông nghiệp, môi trường các địa phương cần hướng dẫn người
dân tích trữ nước mưa, canh tác loại cây trồng cần ít nước và sử dụng nước tiết
kiệm...
Cửu
Long
(vnexpress.net)
Mekong: Trận ‘hạn hán thế kỷ’ nhìn từ quan điểm hạ lưu
Thuy
Tien 27.7.19
Báo
chí Thái Lan, Việt Nam và hải ngoại đều đăng tin lưu vực Mekong hạn hán bị nặng
nề nhất của thế kỷ, mực nước xuống từ Trung Quốc (TQ) trong tháng này bỗng xuống
thấp chỉ còn một nửa kỷ lục thấp có trước, các tổ chức dân sự ở Thái cho rằng hạn
hán là do các đập thuỷ điện của Trung Quốc trên Vân Nam đã cắt hãm nước.
Biển
Hồ cạn nước
do dòng Mekong bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu và các đập trên
thượng nguồn.
Dư
luận cáo buộc TQ như thế là hợp lý, nhất là từ quan điểm Thái Lan, vì Đông Bắc
Thái Lan là vùng nằm ngay sát biên giới với Trung Quốc ngay dưới chân chuỗi đập
Vân Nam, nên họ phải hứng chịu tác động trực tiếp từ các đập thủy điện Vân Nam
TQ. TQ vẫn hứa hẹn lợi ích của chuỗi đập Vân Nam, như giúp hạ lưu giảm lũ lụt
và tránh hạn hán, nhưng thực tế các đập TQ đã không hề mang lại các lợi ích đó.
Vào
trận hạn hán năm 2016, TQ đã bất ngờ gián đoạn cung cấp lưu lượng quan trắc tại
trạm Cảnh Hồng trên Vân Nam cho tổ chức hợp tác quốc tế Mekong River
Commission, MRC và các nước hạ lưu. Năm đó, TQ cắt giảm mực nước chảy xuống
Chiang Sean xuống dưới mức thấp kỷ lục, gây khốn đốn cho Đồng Bằng Sông Cửu
Long (ĐBSCL), khi đó Viet Ecology Foundation đã phải báo động với tòa Đại Sứ Mỹ
ở VN, họ đã khẩn cấp gởi đoàn xe nước xuống cứu trợ; cho mãi đến cuối mùa khô
năm đó TQ mới tăng lưu lượng nước lại bình thường nhưng quá muộn.
Và
chỉ mới vừa đây, vào mùa hạn tháng 7, 2019, TQ lại bất ngờ cắt lưu lượng sông,
lấy cớ vì phải bảo trì mạng tải điện, chỉ chảy còn một nửa lưu lượng kỷ lục thấp
nhất trước đó. TQ bị báo chí tố cáo, và để xoa dịu dư luận, TQ mới vừa tuyên bố
sẽ cung cấp cho MRC các thông tin hàng ngày về mực nước sông và lượng mưa Vân
Nam. Thực tế cho thấy từ khi có các đập TQ, hạ du Mekong đã bị nhiều trận hạn
hán khắc nghiệt hơn và thường xuyên hơn trong khi TQ không thay đổi chính sách
thuỷ điện, sau 8 dự án, vẫn tiếp tục quy hoạch xây thêm 20 đập khác và tài trợ
các dự án thuỷ điện trên dòng chính Mekong trên đất Lào.
Các
NGO Thái Lan đã phản đối dự án Xayaburi của Lào và nộp đơn kiện tập đoàn điện lực
Thái EGAT từ năm 2012 nhưng rất tiếc họ thất bại. Tổ chức quốc tế Mekong River
Commission, MRC ông Phạm Tuấn Phan, CEO tại hội thảo 2017 đã công khai phủ nhận
tác hại của các dự án thuỷ điện và góp tiếng nói vận động cho Lào thông qua dự
án Pak Beng. Việt Nam (VN) đã không quyết kiệt phản đối Lào và Phạm Tuấn Phan,
VN im lặng có lẽ đã có thỏa hiệp để nhận chia phần thực hiện dự án Luang
Prabang. Quyền lợi, sinh kế và môi trường của dân cư đồng bằng Tonle Sap và Cửu
Long coi như đã bị hai nhà cầm quyền Cambodia và VN hy sinh trong các cuộc họp
duyệt xét dự án của Lào của MRC.
Trung
Quốc và Lào bác bỏ cáo buộc hạn hán do thủy điện gây ra mà cho rằng hạn hán là
vì có ít mưa trên lưu vực.
Mưa
ít dần trên lưu vực là có thật nhưng hạn hán sớm hơn và khắc nghiệt hơn khi thiếu
mưa là do vận hành các hồ chứa thủy điện, chúng có khả năng gây ra hạn hán cả
khi có mưa. Nước và phù sa là máu và dưỡng khí của hệ sinh thái lưu vực. TQ cất
giữ 40 tỉ mét khối hay 53% vũ lượng hàng năm của lưu vực sông Lancang TQ, và
Lào cất giữ 30 tỉ mét khối hay 18% vũ lượng hàng năm của lưu vực sông Mekong
trên đất Lào để các hồ thuỷ điện của họ có thể hoạt động. Lượng nước hồ nói
trên rất lớn nên mỗi hồ chứa phải tích tụ qua nhiều mùa mưa liền, và lần lượt lấy
đầy hết 8 dự án Vân Nam cũng kéo dài suốt nhiều thập niên qua. Và rồi TQ còn 20
dự án thủy điện khác nữa, chưa kể vào những năm ít mưa, tích trữ nước gây hạn
hán càng thêm kinh khủng.
TQ
và còn cả Lào nữa, họ đã cùng cắt giữ nước sông Mekong, họ không chờ mùa khô mà
họ giữ lấy nước sông vào suốt mùa mưa, đến nỗi khiến Biển Hồ Tonle Sap hàng năm
không còn mực nước dâng theo flood pulse, mất đi mùa nước nổi, rồi sang đến mùa
khô, Biển Hồ không có số nước thặng dư đó để chảy xuôi về giúp cho ĐBSCL chống
mặn. TQ và cả Lào trên thực tế đã không hề bù giúp tăng lưu lượng nước cho
Cambodia và VN vào mùa khô, dù lý thuyết và tuyên truyền họ vẫn nguỵ biện cho
thủy điện là phải xả nước để chạy tua bin, điều mà nông ngư dân hạ lưu không thể
tin vì họ không hề thấy.
Tổ
chức International Rivers tại Thái Lan kêu gọi chính phủ các quốc gia trong khu
vực phải nỗ lực kiểm soát việc khai thác sông Mekong.
Lời
kêu gọi này đã có các NGO các nước Mekong và quốc tế kiến nghị nhiều lần từ
lâu, 65 triệu dân cư Mekong đã trở thành nạn nhân của cơn điên thủy điện và sự
xoay chuyển địa chính trị do Trung Quốc khởi xướng và chỉ đạo. Không những thế,
họ lại đang sống trên một lưu vực phải hứng chịu tổn thương nhất vì biến đổi
khí hậu toàn cầu, một tình trạng không phải do họ gây ra. Vào tháng 11, 2015
dân cư Mekong và 10 tổ chức phi chính phủ đã kết hợp thành lập United Mekong
Communities Network và đệ trình các chính phủ Mekong một kiến nghị chưa từng có
trong lịch sử: ”Các Chính phủ Mekong: Hãy lắng nghe tiếng Dân!” Nhưng tiếc thay
kiến nghị của họ đã bị bỏ ngoài tai.
Tóm tắt quan điểm từ hạ
lưu
Không
phải chỉ có hạn hán, không phải chỉ có TQ, tất cả các đập thuỷ điện TQ và Lào
còn giam giữ phù sa, ngăn cản di ngư, gây sói lở ven bờ, cho xâm mặn sâu vào thềm
lục địa và soi mòn duyên hải. Thuỷ điện không phải là năng lượng tái tạo không
sạch vì khí thải vô hình do rữa mục từ lòng hồ vùng ngập nhả ra nhiều ngang với
điện than. Tổ chức NGO độc lập OXFAM đã có báo cáo về kinh tế cho chuỗi đập hạ
lưu Mekong cho rằng không có lợi mà lưu vực sẽ gây tổn thất, tổng cộng trên 7 tỉ
USD.
Không
tính tổn thất xã hội và môi trường, chi phí xây dựng sản xuất thủy điện Mekong
hiện đã tốn kém nhất thế giới, các đập của Lào sẽ có chi phí đắt gấp đôi năng
lượng mặt trời và gấp ba năng lượng gió. Chính phủ Lào đang dẫn dắt Lào đầu tư
vào những dự án lỗi thời, ngược xu hướng thời đại, dân tộc Lào sẽ gánh chịu
công nợ và thiệt hại sớm, khi Thái Lan và VN không nhập cảng thuỷ điện Lào vì đắt
và còn thất thoát vì đường tải xa xôi.
Thật
vậy, Thái Lan đã công bố phải xét lại quy hoạch năng lượng và trì hoãn khế ước
mua điện Pak Beng của Lào.
Cambodia
đã có thể làm điện từ nắng trên Biển Hồ, VN từ gió trên duyên hải Trung Nam Việt,
đó là những nguồn năng lượng tái tạo, sạch và vô tận sẵn có ngay trên lãnh địa
mình.
Chính
phủ Lào với 6 triệu dân không thể vì lợi nhuận thuỷ điện mà bất chấp thiệt hại
của 26 triệu dân cư đồng bằng sông Tonle Sap Cambodia và sông Cửu Long VN. Dân
Cambodia và VN không cần dựa vào thuỷ điện của TQ hay Lào, nhà cầm quyền
Cambodia và VN cần liên kết chống lại Lào và TQ, lập quy hoạch dựa vào tiết kiệm,
phát triển năng lượng sạch, giá rẻ, giảm ô nhiễm và sự lệ thuộc vào nhiên liệu
nhập cảng, nhất là không hy sinh quyền lợi nông ngư dân và sức khoẻ dân mình.
July 23, 2019
Nguồn
tham khảo
(VOA)
Source:
Mekong River at its lowest in 100 years, threatening food supply
A combination of drought and controversial
upstream water politics is setting up Southeast Asia for potential disaster.
BY STEFAN LOVGREN
PUBLISHED JULY 31, 2019
A SEVERE DROUGHT that has caused water
levels in Southeast Asia’s Mekong River to drop to their lowest in more than
100 years could have devastating consequences for fish, as well as the tens of
millions of people living and working along the river, experts warn.
The crisis began when critical monsoon
rains, which usually start in late May in the Mekong region, failed to arrive.
Dry conditions, driven by the El Niño weather phenomenon and exacerbated by
climate change, persisted well into July. At that time, observers say, the
situation was made worse by hydropower dam operators upstream, in China and
Laos, withholding water for their own purposes.
Although the rains finally began to fall
in the last week in much of the river basin, with water levels now slowly
rising, experts warn that the potential damage from the drought could be worse
than in 2016, when another drought caused forest fires around Tonle Sap Lake in
Cambodia and widespread disruptions to food production.
Many rice farmers in the region have been
unable to plant their main crop, raising fears of a heavily diminished harvest
this fall. Less water flow could also have a devastating impact on fish
reproduction in the Mekong River basin. This is normally the time when fish use
rising water levels as a cue to spawn and to disperse their young, but there is
little evidence of this happening so far this year.
Perhaps even more alarming, experts expect
that droughts and disruptions to the water flow of the Mekong will become more
common, and they warn that it could eventually lead to the collapse of the
entire ecosystem.
“With the completion of more mainstream
dams and the cumulative effects of climate change, that tipping point” for when
the Mekong can no longer sustain these changes “may be coming closer,” says
Brian Eyler, the Southeast Asia program director at the Stimson Center in
Washington, D.C.
Flood
Pulse
Originating in the Tibetan highlands, the
Mekong River flows through six Asian countries, including China, Myanmar,
Thailand, Laos, Cambodia, and Vietnam, before emptying into the South China
Sea. The river basin is home to the largest inland fishery in the world and
more than 60 million people depend on it for their livelihoods.
Few rivers in the world rise and fall with
the seasons as much as the Mekong, which can drop up to 40 feet in some places
at the end of the dry season. When the monsoon rains arrive, they normally
produce a flood pulse that brings with it sediment essential to agriculture as
well as enormous amounts of larvae and tiny fish, including many critically
endangered species such as the Mekong giant catfish, that are swept into the
Tonle Sap Lake and other floodplains where they can mature.
Every year, scientists have been
collecting samples of these tiny fish and larvae on the Mekong River near Phnom
Penh, Cambodia. However, so far this year, sub-normal water levels have
produced no flood pulse, and the researchers have not seen any dispersal of
fish larvae.
“Without the flood pulse, fish may delay
or skip spawning,” says Zeb Hogan, a National Geographic Explorer and fish
biologist at the University of Nevada, Reno, who leads a USAID project called
Wonders of the Mekong. “For rare and endangered species, this situation
threatens their survival, and for commercially important fish species, future
harvests could be significantly reduced.”
According to Peng Bun Ngor, a fish
ecologist with the Cambodian Fisheries Administration, the low river flow also
forces brood fishes to concentrate in spaces where they become more vulnerable
to being captured by fishers. “This adds to the existing problem of low
recruitment,” he says.
Dam
Politics
This year, the dry conditions in the
Mekong region persisted due to warm Pacific Ocean currents known as the El Niño
effect. But climate change is also a driving factor, experts say, causing the
monsoon season to shorten considerably.
“I have no doubt that this present drought
is caused by the shift in world weather patterns as the result of global
change, especially warming trends, and it would not be surprising if it lasted
several more years,” says Peter Moyle, a biology professor emeritus at the University
of California, Davis.
Moyle and others say dams on the upper
parts of the Mekong are contributing to the degradation of the entire river
system.
“Dams collect sediment, block fish
migrations, and create reservoirs that support a fraction of the fisheries that
the equivalent reach of flowing water would support,” he says, adding that the
dams will worsen the effects of drought.
China, which operates 11 dams along the
main stem of the Mekong (or Lancang, as it’s known in China), has come under
particular criticism for how it operates its dams in secrecy without much
regard for water flow downstream. It is not a member of the intergovernmental
Mekong River Commission, which was set up in 1995 to facilitate regional
dialogue in the lower Mekong River basin.
China’s decision to halve the water
released from its Jinghong Dam for two weeks in July, due to “grid
maintenance,” is believed to have contributed in large part to this year’s
historically low water levels in the Mekong River. Chinese promises to release
more dam water in the future have only served to raise worries over the extent
to which China controls the river flow in the Mekong.
“This highlights underlying inequities
among Mekong basin countries,” says Sarah Null, a professor at Utah State
University in the Department of Watershed Sciences. “Richer nations reap more
benefits of hydropower dams, including economic benefits and increased energy
supply, while poorer nations are more affected by environmental degradation and
reduced food security.”
'Battery
of Asia'
Many experts are particularly concerned
about the environmental impact of Laos’ plans to turn itself into “the battery
of Southeast Asia” by building dozens of hydroelectric dams on the Mekong and
its tributaries and selling power to neighboring countries.
Earlier this month, at the same time China
reduced the water output from the Jinghong Dam, Laos conducted trials on the
giant Xayaburi dam in the northern part of the country, its first hydropower
project on the main stem of the Mekong, scheduled to go online in October this
year. The trials may have further disrupted the Mekong River’s flow.
One of the poorest countries in the
region, Laos already has close to 50 hydroplants operating on various Mekong
tributaries and more than 50 planned or under construction, several of them
along the main stem of the Mekong. Last year a dam collapsed in southern Laos,
flooding large areas and killing dozens of people. Environmentalists have long
warned that the Lao projects carry environmental costs that are not fully
appreciated or factored in to the decision-making.
“There is a system of total anarchy for
hydropolitics and hydropower in the region,” says Eyler, who is the author of
the book Last Days of the Mighty Mekong. “There was no overall vision for what
the ‘battery of Asia’ would look like, and now there is no vision for how that
battery will operate.”
Still, there are signs that some countries
in the Mekong basin are moving toward alternative forms of energy. Officials in
Cambodia have expressed doubts about its plans for two, Chinese-constructed
dams on the Mekong River in the northern part of the country, as Cambodia aims
to instead increase its solar energy production.
Hogan says the Mekong must avoid the fate
of other heavily dammed rivers, like the Colorado in the U.S., which has seen a
complete alteration of its natural hydrography and the near total failure of
spawning and recruitment of most native fish.
He points out that while the Mekong basin
has proven remarkably resilient for many years, it is now facing unprecedented
pressures.
“The accelerating pace of change, coupled
with cumulative impacts of transboundary stressors, and the impending impacts
of climate change, point to a fear that the river, which is the lifeblood of
most of Southeast Asia, will gradually lose function until it no longer
supports the huge diversity of wildlife and millions of people that depend on
it,” he says.
SOURCE:
.